Phát triển điện trấu – Giải pháp bảo vệ môi trường hiệu quả

Sự ra đời của Nhà máy đồng phát nhiệt – điện đốt trấu là bước khởi đầu quan trọng trong lĩnh vực phát triển năng lượng sinh khối, đồng thời giải quyết triệt để vấn nạn trấu dư thừa, gây ô nhiễm môi trường. Để tìm hiểu về vấn đề này, phóng viên Tạp chí Môi trường đã có cuộc trao đối với ông Trương Đình Dũng – Giám đốc Nhà máy Nhiệt điện Đình Hải, Công ty CP Nhiệt điện Đình Hải – COGEN (TP. Hồ Chí Minh).

PV: Xin ông cho biết, những tiềm năng phát triển điện trấu ở đồng bằng sông cửu Long (ĐBSCL) nói riêng và Việt Nam nói chung?

Ông Trương Đình Dũng: ĐBSCL là vựa lúa lớn, chiếm 50% sản lượng trong cả nước. Đây cũng là nơi tập trung nhiều nhà máy và cụm xay xát lúa. Với sản lượng trấu hàng năm lên tới hơn 4 triệu tấn từ các nhà máy xay xát, khu vực ĐBSCL đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường khá nghiêm trọng. Hiện nay, phần lớn lượng trấu này dùng trong các lò nung, lò hơi có hiệu suất thấp. Lượng trấu sử dụng cho nhà máy điện rất ít nên sản lượng trấu tiềm năng dùng cho các nhà máy điện trấu còn lớn. Theo quy hoạch có đến 10 dự án điện trấu tại ĐBSCL đã đăng ký, nhưng đến nay chưa có dự án nào đi vào hoạt động. Đặc biệt, theo Quy hoạch điện đến năm 2020, điện từ năng lượng tái tạo chiếm 3% tổng sản lượng điện, do vậy, Nhà nước sẽ có các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy phát triển điện từ năng lượng tái tạo trong đó có điện trấu. Bên cạnh đó, ở ĐBSCL có mạng lưới kênh rạch rộng khắp, thuận lợi cho việc vận chuyển trấu đến các nhà máy điện trấu.

Mặt khác, nước ta là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới và là nước nông nghiệp nên trong dài hạn, lượng trấu ngày một tăng. Hiện nay, mỗi năm sản lượng trấu thải ra từ công nghiệp xay xát của cả nước khoảng 7,5 triệu tấn nhưng chỉ có khoảng 3 triệu tấn được sử dụng. Điều này cũng cho thấy tiềm năng phát triển điện trấu rất lớn.

PV: Được biết, Dự án nhiệt – điện đốt trấu của Công ty đang tiến hành giai đoạn 2, vậy ông có thể giới thiệu đôi nét về Dự án và những kết quả đạt được cho đến thời điểm hiện nay?

Ông Trương Đình Dũng: COGEN đã hoàn thành giai đoạn 1 bao gồm: Xây dựng, lắp đặt lò hơi và hệ thống đường ống cấp hơi. Trong giai đoạn 2, COGEN sẽ tiến hành lắp đặt tuabin, máy phát điện 4MW và hệ thống bình ngưng, làm mát… Hiện tại, Công ty đang tìm kiếm đối tác hợp tác để tiến hành giai đoạn 2. Đồng thời, COGEN đang hợp tác với Viện Năng lượng – Bộ Công Thương và chủ các dự án điện trấu để xin cơ chế giá điện cho Nhà máy điện trấu nói riêng và điện sinh khối nói chung. Sau khi hoàn thành, Dự án sẽ phát điện lên lưới, đồng thời, cung cấp hơi qua hệ thống đường ống. Như vậy sẽ nâng cao hiệu suất của Dự án và đóng góp sản lượng điện cho KCN Trà Nóc 2.

PV: Xin ông cho biết, hiệu quả về môi trường từ điện trấu mang ?

Ông Trương Đình Dũng:

Ngoài hiệu quả kinh tế – xã hội, điện trấu còn góp phần giải quyết ô nhiễm môi trường. Công nghệ đốt trấu trong các nhà máy đồng phát nhiệt – điện sử dụng lò hơi hiện đại và hiệu suất cao. Ngoài ra, nhà máy sẽ trang bị hệ thống xử lý khói, bảo đảm khói thải không làm ô nhiễm môi trường xung quanh. Đặc biệt, tro trấu sẽ được thu gom, đóng bao tại nhà máy và bán cho các khách hàng có nhu cầu. Nhà máy sẽ áp dụng các biện pháp quản lý tốt tro trấu để bảo đảm tro trấu không làm ô nhiễm môi trường tại địa phương. Đồng thời, việc thu mua trấu để sản xuất năng lượng sẽ giúp TP. Cần Thơ cũng như ĐBSCL giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường và góp phần giảm phát thải khí nhà kính ở quy mô toàn cầu.

PV: Từ những kết quả đạt được, xin ông cho biết một số kinh nghiệm để phát triển điện trấu ở ĐBSCL?

Ông Trương Đình Dũng: Để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển các nhà máy điện sinh khối, Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ cụ thể như: Tạo cơ chế thu mua trấu ổn định lâu dài cho nhà máy điện trấu; Đánh thuế môi trường đối với các nhà máy nhiệt điện dùng nhiên liệu hóa thạch, một phần tiền thu được sẽ thành lập quỹ hỗ trợ năng lượng tái tạo; Hỗ trợ doanh nghiệp về vốn, thủ tục, đất đai để lập và phát triển dự án. Mặt khác, ĐBSCL cần quy hoạch các nhà máy điện trấu, bảo đảm trong bán kính 100 km chỉ có 1 nhà máy điện trấu hoạt động để tránh việc tranh nguồn nhiên liệu. Đồng thời, nhà máy điện trấu cần xây dựng gần vùng nhiên liệu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, hiệu suất của nhà máy.

PV: Xin chân thành cảm ơn ông vê cuộc trao đồi này!

 Theo vea.gov

Mô hình trình diễn kỹ thuật làm sạch sản phẩm và xử lý chất thải ở Công ty CP Thép Hương Thịnh

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bắc Giang có khoảng 30 doanh nghiệp công nghiệp cơ khí, Công ty CP Thép Hương Thịnh đã tiên phong áp dụng công nghệ làm sạch bề mặt thép có xử lý khí thải và nước thải. Mô hình sản xuất sạch này có thể giúp nhiều doanh nghiệp khác áp dụng nhằm phát triển bền vững.
Ngành cơ khí là một trong những lĩnh vực chủ lực của công nghiệp Bắc Giang trong những năm gần đây. Hiện nay, Bắc Giang đang trong giai đoạn đầu tư phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các trung tâm thương mại của tỉnh, hạ tầng nông thôn mới,… Do đó, nhu cầu về thép phục vụ xây dựng và gia công, chế tạo sản phẩm cơ khí tăng một cách đáng kể.Hàng năm, tỉnh Bắc Giang đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng cho xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, nhu cầu xây dựng của người dân ngày càng tăng khiến nhu cầu về vật liệu xây dựng, trong đó có nhu cầu về sắt thép tăng mạnh. Theo số liệu thống kê của tỉnh Bắc Giang, nhu cầu tiêu thụ sắt thép của tỉnh và một số khu vực lân cận lên tới 11 triệu tấn/năm – một con số không hề nhỏ so với thực tế sản xuất của các doanh nghiệp Bắc Giang và nhu cầu này được dự báo sẽ tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo. Bởi vậy, sự ra đời của các nhà máy sản xuất thép cũng là điều tất yếu, song lại đặt ra vấn đề trong xử lý môi trường – một yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển bền vững.

Căn cứ vào năng lực sản xuất, nhu cầu của thị trường sắt, thép trên địa bàn tỉnh Bắc Giang và các khu vực lân cận, năm 2009, Công ty CP Thép Hương Thịnh đã xây dựng dự án “Đầu tư nhà máy cán thép liên hoàn” tại cụm công nghiệp Hoàng Mai, xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang với 3 dây chuyền sản xuất: Dây chuyền đồng bộ ủ, mạ kẽm; dây chuyền làm sạch bề mặt thép và dây chuyền cán thép liên hoàn. Sau khi đầu tư hoàn chỉnh, ước tính Nhà máy đạt sản lượng khoảng 30.000 – 40.000 tấn thép các loại/năm.

Sau khi dự án được duyệt, năm 2010, Công ty đã đầu tư dây chuyền đồng bộ ủ, mạ kẽm liên hoàn với tổng giá trị đầu tư 26 tỷ đồng, công suất tối đa sau khi đi vào vận hành sẽ mạ khoảng 180-250 tấn thép/ngày. Đầu năm 2011, Công ty tiếp tục đầu tư dây chuyền làm sạch bề mặt thép với tổng kinh phí 24 tỷ đồng. Đây là dây chuyền đầu tiên trên địa bàn tỉnh tương đối đồng bộ, khép kín. Dây chuyền này dùng để tẩy rửa sạch các tạp chất có trên bề mặt thép trước khi đưa vào cán, mạ thép để tạo thành những sản phẩm thép có chất lượng cao. Điều đáng nói, dây chuyền làm sạch bề mặt thép còn có cả một hệ thống thiết bị xử lý nước thải và khí thải, hạn chế ảnh hưởng đến môi trường xung quanh và tiết kiệm một phần chi phí trong sản xuất khi tận thu một lượng sản phẩm phụ đưa vào tái sản xuất. Công suất của dây chuyền rất lớn khi có thể làm sạch bề mặt cho 180-250 tấn thép/ngày, đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu cho dây chuyền cán và mạ thép.

Quy trình làm sạch bề mặt kim loại bắt đầu từ khâu nguyên liệu là tôn cuộn, sau khi đã cắt thành sản phẩm được đưa qua máng tẩy rửa axit công nghệ cao ở nhiệt độ 70oC, nguyên liệu để tẩy rửa là axit HCl (axit clohidric), sau đó chạy qua máng trung hòa NaOH (natrihidroxit) và tráng rửa để thành tôn sạch đưa vào cán. Trong quá trình này, nước thải sẽ được xử lý bằng hệ thống xử lý nước thải tuần hoàn công nghệ cao, năng lực xử lý 10m3 và các khí thải cũng sẽ được xử lý với hình thức hút axit sương mù. Bộ phận xử lý này cũng sẽ thu hồi một lượng axit HCl để đưa vào tái sử dụng, khối lượng có thể thu hồi từ 2-3 kg/tấn sản phẩm – khối lượng này có giá trị kinh tế không nhỏ và góp phần giảm chi phí sản xuất. Lượng axit còn lại sẽ được đưa sang hệ thống xử lý nước thải tuần hoàn công nghệ cao.

Việc xử lý nước thải trong quy trình làm sạch bề mặt thép được thực hiện từ khâu nước thải đưa vào bể điều tiết. Trong bể này đã được lắp đặt hệ thống sục khí, đưa nước thải vào bể trung hòa. Nước từ bể trung hòa được đưa tiếp vào bể keo tụ và bể lắng. Phần nước bên trong bể lắng sẽ tự chảy vào bể nước trung gian và tại đây, lượng nước này sẽ được bơm nâng lên từ bộ lọc cao áp, qua lọc thải ra ngoài, hoặc đưa vào tái sử dụng theo nguyên lý tuần hoàn.

Trong dây chuyền làm sạch bề mặt thép còn được lắp đặt tháp hấp thụ. Quy trình xử lý khí thải với công nghệ xử lý thu hồi hơi axit được thực hiện tại đây. Lượng axit HCl tại máng tẩy rửa qua quá trình sục khí tái sinh tạo thành hơi axit. Hơi axit được quạt hút vào thiết bị hấp thụ bằng đệm cầu, tại đây hơi đi từ dưới đáy tháp lên, dung dịch kiềm được phun từ trên xuống, tạo ra phản ứng trung hòa, hơi axit đã được xử lý và thu hồi một phần phục vụ tái sản xuất.

Có thể khẳng định rằng, hệ thống xử lý nước thải và khí thải có ý nghĩa đối với dây chuyền làm sạch bề mặt thép bởi đã hạn chế được ô nhiễm môi trường – một vấn đề không dễ khắc phục trong sản xuất thép và tiết kiệm chi phí trong sản xuất. Đây là một hạng mục quan trọng trong dự án đầu tư nhà máy cán thép liên hoàn của doanh nghiệp này.

Tiết kiệm chi phí, đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp và xử lý chất thải trong quá trình sản xuất, hạn chế ô nhiễm môi trường là những ưu điểm đã được khẳng định của dây chuyền làm sạch bề mặt thép có xử lý khí thải và nước thải trong quá trình hoạt động. Theo hạch toán của Công ty CP Thép Hương Thịnh, ngoài tạo việc làm thường xuyên cho 140 lao động, doanh thu hoạt động của Nhà máy trong một năm có thể đạt gần 350 tỷ đồng, trong đó chi phí sản xuất gần 280 tỷ đồng, trừ các khoản khấu hao, lãi suất, nộp thuế, lợi nhuận đạt 23 tỷ đồng/năm – kết quả không nhỏ đối với một doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Bên cạnh đó, sản phẩm thép của Công ty đã phần nào đáp ứng nhu cầu đang gia tăng của thị trường, đa dạng hóa sản phẩm phục vụ cho nhu cầu xây dựng, sản xuất cơ khí.

Đổi mới công nghệ hiệu quả góp phần bảo vệ môi trường

Ảnh minh họa
Bằng những đầu tư thích đáng cho thiết bị, công nghệ, Công ty CP tấm lợp Từ Sơn – Bắc Ninh đã gặt hái được nhiều thành công, góp phần tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh, bảo vệ môi trường.
Bước vào thị trường tấm lợp năm 1997, Công ty CP tấm lợp Từ Sơn – Bắc Ninh đã đầu tư một dây chuyền chuyên sản xuất tấm lợp amiăng xi măng (AC). Sau gần 10 năm đưa sản phẩm ra cạnh tranh trên thương trường, công ty đã nhận ra rằng, dây chuyền sản xuất đang vận hành lạc hậu phải sử dụng nhiều lao động trực tiếp nhưng năng suất vẫn thấp, chất lượng sản phẩm khó được nâng cao. Công nghệ lạc hậu không chỉ khiến năng suất, chất lượng sản phẩm thấp mà còn tiêu tốn khá nhiều năng lượng, tác động xấu tới môi trường. Đó cũng là nguyên nhân chính khiến cho hiệu quả sản xuất, kinh doanh của công ty khó cải thiện.
Nhận thức được tầm quan trọng của công nghệ đối với quá trình phát triển bền vững, năm 2009, Công ty CP tấm lợp Từ Sơn đã quyết định đầu tư gần chục tỷ đồng đổi mới công nghệ và cải tạo môi trường sản xuất.
Theo đó, công ty đã chi 2,753 tỷ đồng đầu tư thiết bị tạo bóng, thiết bị dỡ khuôn theo qui trình tự động; chi 2,11 tỷ đồng cho việc lắp đặt thiết bị trộn liệu mới; chi 2,436 tỷ đồng đầu tư thiết bị xeo tấm lợp 3 bể… Bên cạnh việc đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, Công ty CP tấm lợp Từ Sơn cũng đã chi 1,65 tỷ đồng cho việc bê tông hóa sân bãi, hệ thống cống rãnh thoát nước, bể chứa nước thải và cải tạo môi trường xung quanh.Sau khi việc đổi mới công nghệ hoàn tất, một qui trình sản xuất mới theo hướng hiện đại, tỷ lệ tự động hóa cao, tiêu hao ít năng lượng… đã được vận hành. Từ năm 2010 đến nay, hiệu quả sản xuất, kinh doanh của Công ty CP tấm lợp Từ Sơn đã được cải thiện đáng kể. Nhờ đổi mới công nghệ, nhiều khâu trong qui trình sản xuất đã được tự động hóa nên số lao động trực tiếp đứng máy đã giảm được 50% mà năng suất lao động vẫn tăng khoảng 31%; chất lượng sản phẩm được nâng cao.

Môi trường sản xuất sau đổi mới công nghệ ở Công ty CP tấp lợp Từ Sơn cũng được cải thiện, sức khỏe của người lao động được đảm bảo an toàn hơn. Qua kiểm tra của Trung tâm Môi trường Bắc Ninh cho thấy, các chỉ số ô nhiễm nơi sản xuất về tiếng ồn, tỷ lệ bụi, nước thải, chất thải… đều đảm bảo và thấp hơn ngưỡng tiêu chuẩn cho phép.

Trong bối cảnh khó khăn chung không ít doanh nghiệp vừa và nhỏ trong năm 2011 và 9 tháng đầu năm 2012 đã phải tạm ngừng sản xuất kinh doanh hoặc giải thể song nhờ có sự đầu tư đổi mới công nghệ kịp thời trước đây kết hợp với định hướng kinh doanh phù hợp mà sản phẩm tấm lợp Từ Sơn vẫn có sức sống trên thị trường. Hiệu quả sản xuất, kinh doanh của Công ty CP tấm lợp Từ Sơn trong bối cảnh khó khăn vẫn thu được lợi nhuận cao (doanh thu năm 2011 đạt trên 60 tỷ đồng, thu nhập bình quân của người lao động từ 3.700.000 – 4.200.000 đồng/người/tháng)./.

Nhiều tiềm năng tiết kiệm năng lượng trong ngành giấy

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)
Theo khảo sát, đánh giá của Tổng công ty giấy Việt Nam,  chi phí năng lượng trong sản xuất giấy và bột giấy chiếm đến 20 -30 % chi phí sản xuất. Công nghệ lạc hậu, thô sơ, manh mún và nhỏ lẻ, mức độ tự động hóa còn thấp chính là nguyên nhân gây tổn hao nguyên, nhiên liệu trong sản xuất giấy. Theo đó, chi phí hóa chất, năng lượng và nước cho sản xuất giấy và bột giấy của các nhà máy là rất lớn.
Công nghệ lạc hậu

Ông Tạ Đức Long, Tổng công ty giấy Việt Nam cho biết, với công nghệ như trên, nhìn chung chất lượng giấy của Việt Nam còn hạn chế, chủ yếu chỉ đáp ứng được nhu cầu nội địa. Tỷ lệ xuất khẩu các loại giấy của Việt Nam rất thấp. Các loại giấy chất lượng cao hầu hết phải nhập khẩu.

Cũng theo số liệu thống kế của Tổng công ty giấy Việt Nam, mức độ tiêu thụ điện, hơi nước của ngành giấy Việt Nam đều cao hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Năng lượng được sử dụng chủ yếu là điện, than, dầu DO và dầu FO. Các dạng năng lượng này chủ yếu dùng chạy động cơ, đốt lò hơi, sấy sản phẩm và gia nhiệt.

Còn theo thống kê của Hiệp hội giấy Việt Nam, trong sản xuất giấy tại các doanh nghiệp Việt Nam, chi phí nhiên liệu của giá thành sản phẩm chiếm 6 -9%, chi phí điện năng chiếm 7 -12%. Với khoảng trên 400 doanh nghiệp sản xuất giấy, có tốc độ tăng trưởng ngành đạt 15 -16%, nhu cầu năng lượng cho ngành giấy sẽ tăng rất nhanh trong các năm tới.

Còn nhiều tiềm năng

Tại hội thảo với chủ đề tiết kiệm năng lượng trong sản xuất công nghiệp mới đây được tổ chức tại Hà Nội, ông Long nhấn mạnh, cơ hội giảm chi phí sản xuất thông qua sử dụng hiệu quả năng lượng trong ngành công nghiệp giấy là rất lớn. Nhiều năm nay, tại Tổng công ty giấy Việt Nam các giải pháp này đã và đang được triển khai có hiệu quả. Tiết kiệm năng lượng không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà còn mang lại tác động giảm ô nhiễm môi trường rõ rệt, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động và môi trường quanh nhà máy.

Các cơ hội tiết kiệm năng lượng trong sản xuất giấy tập trung chủ yếu là giảm tiêu thụ điện và than. Cụ thể, những giải pháp được nêu ra là thay thế dần các thiết bị cũ, kém hiệu quả, phát huy công suất thiết bị, không vận hành thiết bị trong tình trạng non tải. Giảm thiểu nhiệt mất mát bằng cách bảo ôn đường ống. Sử dụng lò đốt đa năng, tận dụng nhiệt của các chất rác thải công nghiệp sinh hơi công nghệ.

Bên cạnh các giải pháp về kỹ thuật, các doanh nghiệp cần tăng cường giải pháp quản lý nội vi tận dụng lại các nguồn nhiệt thải từ các công đoạn như: thu hồi nhiệt từ khói thải của lò hơi để làm nóng nước cấp cho sản xuất hơi, tận dụng gió nóng thải ra từ các chụp sấy để gia nhiệt cho không khí. Với hệ thống chiếu sáng cần kiểm soát việc chiếu sáng hợp lý tại các khu vực sản xuất…

Ông Long đưa ra những hướng dẫn cụ thể về các biện pháp giảm tiêu thụ điện tại một nhà máy sản xuất giấy và bột giấy bao gồm: Bố trí mặt bằng nhà xưởng hợp lý, giảm tối đa cự ly tải điện; Tránh dùng các máy bơm quá lớn, quạt quá lớn, chọn lựa thiết bị có hiệu suất cao, chọn lựa thiết bị có nhiều chế độ làm việc; Không sử dụng bằng chuyền thay cho biện pháp thổi; Sử dụng có hiệu quả hệ thống chiếu sáng, hệ thống nén; Hạn chế chạy máy không tải; Tắt các thiết bị khi không cần thiết.

Năm 2004, Tổng công ty Giấy Việt Nam đã bắt đầu thực hiện tiết kiệm năng lượng. Từ những giải pháp đơn giản về quản lý đến những giải pháp về kỹ thuật, đòi hỏi đầu tư lớn, mỗi năm Tổng công ty tiết kiệm hàng tỷ đồng chi phí sản xuất. Cụ thể, năm 2004, với giải pháp cải tạo hệ thống đối lưu và ống bộ hâm, tổng công ty tiết kiệm được trên 1 tỷ đồng. Năm 2005, giải pháp cải tiến máy nghiền bột tại phân xường giấy đem lại cho nhà máy khoản lợi ích trê 3 tỷ đồng. Những năm tiếp theo nhà máy liên tục có những giải pháp đem lại hiệu quả cao như cải tạo chế độ vận hành các máy nén khí để tiết kiệm điện và nước cho sản xuất khí nén; Sử dụng bộ biến tần tiết kiệm điện năng; …

(vietpaper.com.vn)

Sản xuất xanh ở Xi măng Vicem Hoàng Thạch

Môi trường không ô nhiễm khói bụi tại Nhà máy xi măng Vicem Hoàng Thạch (Nguồn: baocongthuong.com.vn)
Đầu tư đồng bộ công nghệ hiện đại cùng với việc áp dụng thành công hệ thống quản lý môi trường ISO 14001, Công ty Xi măng Vicem Hoàng Thạch (Vicem Hoàng Thạch) không những sản xuất những tấn xi măng đảm bảo chất lượng mà còn góp phần bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng.
Từ bảo vệ môi trườngÔng Đỗ Mai Côn- Trưởng phòng An toàn và môi trường Công ty Xi măng Vicem Hoàng Thạch- cho biết, từ năm 2002 đến nay, sau khi xây dựng và đưa vào áp dụng thành công hệ thống quản lý môi trường ISO 14001, môi trường công ty đã được cải thiện rất nhiều. Hiện nay, hầu hết các chỉ tiêu môi trường nằm trong tiêu chuẩn cho phép, đặc biệt là xây dựng cho người lao động ý thức được trách nhiệm bảo vệ môi trường của mình.

Những bước đầu tư hay áp dụng những sáng kiến đề tài của Vicem Hoàng Thạch đều hướng tới việc ổn định sản xuất gắn với công tác môi trường. Được biết, theo thiết kế cũ các máy đóng bao tại HT1 đã có lọc bụi, tuy nhiên do thường xuyên chạy vượt công suất nên lượng bụi phát sinh ở khu vực này vượt tiêu chuẩn cho phép. Từ năm 2004 đến năm 2006, Công ty đã cho lắp đặt thêm 3 lọc bụi tay áo công suất lớn, cải tạo bố trí đường ống hút hợp lý. Do vậy, theo số liệu quan trắc môi trường hằng năm, lượng bụi tại các khu vực này đã giảm thiểu, nhỏ hơn tiêu chuẩn cho phép.

Sau khi nghiên cứu áp dụng đề tài đốt chất thải nguy hại tại lò nung clinker vào tháng 11/2007, các loại chất thải nguy hại (dầu thải, giẻ lau dính dầu, chất thải y tế, hộp mực in thải) được xử lý bằng cách đốt trong lò nung clinker HT2 ở nhiệt độ cao 1.500oC bị đốt cháy hoàn toàn không gây ô nhiễm môi trường. Vì  xử lý tại chỗ lên không làm thất thoát chất thải đồng thời tận dụng được lượng nhiệt năng đáng kể để đốt lò, góp phần giảm chi phí sản xuất. Hằng năm, Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Hải Dương kiểm tra cho thấy kết quả quan trắc tại ống khói HT 2 các chỉ tiêu đều đạt tiêu chuẩn TCVN 5937:2005.

Nhằm thu hồi tuần hoàn tái sử dụng nước làm mát ở dây chuyền HT1, năm 2008, vicem Hoàng Thạch triển khai thực hiện đề tài thu hồi tái sử dụng nước. Toàn bộ nước làm mát thiết bị dây chuyền 1 được thu gom, xử lý, tuần hoàn tái sử dụng mà không xả ra môi trường, vừa không gây ô nhiễm môi trường vừa tiết kiệm được khoảng 1,6 tỷ đồng/năm góp phần hạ giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, công ty đã tiến hành nghiên cứu triển khai đề tài khai thác, xử lý nước sông Đá Bạch phục vụ sản xuất đã giảm chi phí mua và tiết kiệm được 3,2 tỷ đồng/năm, đặc biệt là công ty đã chủ động về nguồn nước đảm bảo sản xuất ổn định.

Trước đó, năm 2005, Vicem Hoàng Thạch đã tự nghiên cứu, xây dựng và đưa vào sử dụng hệ thống xử lý bằng phương pháp tuyển nổi (sục khí) để giảm thiểu hàm lượng dầu lẫn trong nước thải tại đây. Theo kết quả quan trắc hằng năm, chất lượng nước thải được xử lý đạt tiêu chuẩn cho phép trước khi xả ra môi trường. Đặc biệt là chỉ tiêu dầu thải, trước xử lý là: 8.5 mg/l, sau xử lý còn 0,28 mg/l (số liệu quan trắc tháng 11/2008) nhỏ hơn nhiều so với tiêu chuẩn cho phép. Hiện nay, bể xử lý vẫn hoạt động thường xuyên, hiệu quả.

Hưởng ứng công tác xã hội hoá về bảo vệ môi trường tại địa phương, Vicem Hoàng Thạch đã phối hợp cùng địa phương trong việc sử dụng chung bãi chôn lấp rác của công ty để giảm thiểu ô nhiễm môi trường khu vực. Trước kia, việc đổ rác của người dân mang tính tự phát, không đảm bảo vệ sinh môi trường. Hiện nay, toàn bộ rác thải sinh hoạt trong địa bàn thị trấn Minh Tân được chôn lấp tại bãi chôn lấp rác của công ty theo đúng quy trình chôn lấp để không gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, xe phun nước, xe hút rác bụi chuyên dụng của công ty thường xuyên phun nước và hút bụi cho các tuyến đường lân cận của địa phương. Trồng nhiều cây xanh xung quanh vành đai Công ty để tạo cảnh quan môi trường khu vực….

Tại kết luận thanh tra bảo vệ môi trường số 185/KLTT-TCMT ngày 28/2/2011 cho thấy, tại 3 dây chuyền của Vicem Hoàng Thạch là HT1,HT2 và HT3 nước thải sau xử lý đạt cột B, QCVN 24:2009/BTNMT trước khi xả thải ra sông Đá Bạch; khí thải SO2, NO2, CO… phát sinh trong quá trình sản xuất đã được xử lý bằng phương pháp pha loãng đạt tiêu chuẩn xả thải sau đó mới thải ra môi trường; bụi thải được giảm thiểu bằng 136 túi lọc bụi tay áo, 11 túi lọc tĩnh điện trước khi thải ra môi trường.

Đến tiết kiệm năng lượng

Xác định được tầm quan trọng của sản xuất xanh, Vicem Hoàng Thạch đã thực hiện đề tài lắp đặt hệ thống biến tần cho các quạt công suất lớn để tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường. Sau khi thực hiện, việc điều chỉnh lưu lượng quạt bằng cách thay đổi tần số dòng điện làm công suất quạt thay đổi theo. Do vậy, đã tiết kiệm được chi phí điện năng đáng kể, góp phần giảm chi phí sản xuất đồng thời bảo vệ môi trường.

Sản xuất xanh không có nghĩa đảm bảo chất lượng sản phẩm ổn định mà còn là chú trọng bảo vệ nguồn nước, khí, bụi thải, hưởng ứng chống biến đổi khí hậu, hiệu ứng nhà kính…. Vì vậy, để giảm thiểu khói bụi ra môi trường xung quanh, Vicem Hoàng Thạch đã tự nghiên cứu, lựa chọn phương án bao che phễu đổ và lắp lọc bụi tại các phễu đổ clinker W2L30, U1U00 cấp cho các máy nghiền.

Tại các máy đóng bao, theo công nghệ cũ không có biện pháp xử lý bụi trên vỏ bao xi măng nên quá trình vận chuyển trên băng tải phát sinh rất nhiều bụi. Trong 2 năm 2005- 2006, Vicem Hoàng Thạch tự nghiên cứu, lắp đặt thành công và đưa vào vận hành thường xuyên hệ thống hút bụi trên vỏ bao xi măng. Kết quả lượng bụi đã giảm rõ rệt từ 9,3 mg/m3 còn 2,26 mg/m3, đáp ứng tiêu chuẩn Việt Nam.

Bên cạnh đó, Công ty đã đầu tư thay thế toàn bộ lọc bụi dalamatic (38 chiếc) bằng lọc bụi tay áo hoạt động hiệu quả liên động cùng dây chuyền, xử lý bụi đạt 96-98% để tăng cường xử lý bụi. Tại các trạm máy nén khí HT1: Công ty đã tự nghiên cứu thực hiện đề tài làm bao che các quạt thổi, máy nén khí cũ và đầu tư thay thế 2 máy nén khí cũ bằng máy nén khí mới hiện đại ít gây tiếng ồn. Kết quả tiếng ồn tại đây đã giảm rõ rệt còn 81,7-86,1 dBA ít ảnh hưởng tới người lao động và cộng đồng dân cư xung quanh.

Có thể thấy những hoạt động cụ thể, thiết thực của Vicem Hoàng Thạch là minh chứng cho một doanh nghiệp có trách nhiệm với xã hội, thân thiện với môi trường. Đây chính là nền tảng quan trọng tạo nên giá trị phát triển bền vững của doanh nghiệp trong một thế giới ẩn chứa nhiều nguy cơ về môi trường và biến đổi khí hậu mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phát huy để phát triển bền vững, nhất là trong thời kỳ hội nhập.

Những việc làm của Vicem Hoàng Thạch xứng đáng là doanh nghiệp sản xuất xanh trong ngành công nghiệp sản xuất xi măng Việt Nam.
(baocongthuong.com.vn)

Quỹ tín dụng xanh(GCTF) Cầu nối giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường

Hiện nay các nước đang phát triển có nền công nghiệp phát triển với tốc độ rất nhanh nhưng lại thiếu đi sự quản lý chặt chẽ dẫn đến việc sử dụng hệ thống máy móc lạc hậu vừa kém hiệu quả với kinh tế, khói thải và chất độc hại đổ ra môi trường không có sự kiểm soát chặt chẽ, gây ô nhiễm trầm trọng môi trường sống, tổn hại đến sức khỏe con người. Vậy nên cần thực hiện nghiên cứu chiến lược phát triển công nghiệp xanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, nhằm đạt 3 mục tiêu: xóa đói giảm nghèo, giảm phát thải và chủ động ứng phó với BĐKH.

Để thực hiện những mục tiêu đó chúng ta cần những nguồn đầu tư lớn hỗ trợ. Trong đó Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh-Green Credit Trust Fund (GCTF) là một trong những quỹ tín dụng lớn nhất hiện nay trên thế giới làm việc này.

GCTF được thành lập từ một sáng kiến hỗ trợ tài chính của Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sỹ (SECO) dành cho các nước đang phát triển, nhằm thúc đẩy đầu tư trung và dài hạn vào công nghệ sạch hơn trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Mô hình này đã được SECO triển khai trước đó ở Colombia và Peru (thuộc nhóm quốc gia mục tiêu của chương trình hỗ trợ mà SECO dành cho các nước đang phát triển). Từ kinh nghiệm triển khai tại hai quốc gia này và qua khảo sát đặc điểm, hiện trạng hoạt động của ngành ngân hàng cũng như các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ, cuối năm 2007, SECO đã chính thức cho ra mắt Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh tại Việt Nam thông qua sự điều phối của Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC).

Theo đó, GCTF giúp các DN tiếp cận các nguồn tài chính khi không đủ khả năng ký quỹ để vay vốn thông qua việc bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ một phần vốn đầu tư để DN lắp đặt vận hành công nghệ sạch hơn và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.

GCTF được vận hành với sự tham gia của các ngân hàng thương mại: ACB, VIB, Techcombank; Trung tâm sản xuất sạch hơn VN (VNCPC), Trung tâm tham vấn tại Thụy Sỹ và Cục kinh tế Liên bang Thụy Sỹ.

Quy định Bảo lãnh của Quỹ

Bảo lãnh 50% giá trị tín dụng của dự án cho những doanh nghiệp không có đủ khả năng ký quỹ. Giá trị bảo lãnh tối đa là 500.000 USD. Phần trăm tối đa của giá trị luỹ kế của khoản bảo lãnh với các cơ chế hỗ trợ khác (ví dụ Quỹ bão lãnh quốc gia) là 70%. Nếu doanh nghiệp đầu tư công nghệ đúng với mục đích đề ra thì công ty sẽ không phải trả bất kỳ chi phí nào cho khoản bảo lãnh.

Nếu doanh nghiệp đầu tư công nghệ không đúng với mục đích đề ra hoặc khoản tín dụng này được dùng để chi trả cho các nhu cầu của công ty khác với những hạng mục trong dự án thì chi phí phải trả cho khoản bảo lãnh là 3%/năm.

Nếu bên vay tiền không đủ tiêu chuẩn để nhận được khoản trả thưởng sau khi đã triển khai lắp đặt công nghệ, thì khoản bảo lãnh vẫn có giá trị cho tới hết kỳ hạn như đã xác định trong hợp đồng vay vốn ký với ngân hàng.

Hoàn trả thưởng

Quỹ Uỷ thác cung cấp khoản khuyến khích cho Dòng tín dụng xanh thông qua hình thức trả thưởng một phần khoản vay tín dụng từ ngân hàng dựa trên việc giảm tác động môi trường đạt được:
Nếu mức độ tác động môi trường giảm được thấp hơn 30%, doanh nghiệp sẽ không được trả thưởng
Nếu giảm thiểu được từ 30 đến 49%, Quỹ sẽ trả thưởng 15% tổng giá trị vay tín dụng từ ngân hàng cho doanh nghiệp
Nếu giảm được từ 50% tác động môi trường trở lên, Quỹ sẽ trả thưởng 25% tổng số giá trị vay tín dụng từ ngân hàng cho doanh nghiệp
Mức trả thưởng tối đa là 200.000 USD hoặc giá trị tiền Việt Nam tương đương cho tất cả các dự án.
Không có mức trả thưởng nằm giữa các mức nêu trên.
Trung tâm Sản xuất sạch hơnViệt Nam sẽ khuyến nghị giá trị trả thưởng dựa trên mức cắt giảm tác động môi trường, được tính toán từ những đo đạc thực tế các thông số trước và sau khi thực hiện dự án. Chi phí của các đo đạc này cũng như việc đánh giá và quan trắc dự án sẽ được gồm trong cả giá trị của khoản tín dụng. Sau khi nhận được bản đánh giá và khuyến nghị của VNCPC, Cục Kinh tế Liên bang Thuỵ Sỹ sẽ sắp xếp để chuyển phần trả thưởng này trực tiếp cho Ngân hàng để giảm trừ khoản vay của doanh nghiệp.

Mức trả thưởng sẽ được tính toán dựa trên mức tín dụng vay hoặc mức đầu tư (giá trị nào thấp hơn thì làm cơ sở để tính toán):
Nếu giá trị tín dụng được Ngân hàng chấp nhận cao hơn giá trị đầu tư thì giá trị đầu tư sẽ được lấy làm cơ sở tính toán mức trả thưởng.
Nếu giá trị tín dụng được Ngân hàng chấp nhận thấp hơn giá trị đầu tư thì giá trị tín dụng được vay sẽ được làm cơ sở tính toán mức trả thưởng.
Trong tất cả mọi trường hợp cơ sở tính toán mức trả thưởng sẽ không vượt quá 1 triệu USD.
Các hạng mục chi phí được bao gồm để tính toán phần trả thưởng

  • Chi phí phần cứng bao gồm lắp đặt thiết bị.
  • Vốn luân động bổ sung cần thiết để triển khai đầu tư.
  • Chi phí tư vấn thuê ngoài cho việc thực hiện đầu tư.
  • Chi phí thẩm định trả cho VNCPC bao gồm đánh giá kỹ thuật chi tiết, đánh giá môi trường và đo đạc các thông số trước và sau khi thực hiện dự án.
  • Phí cho Ngân hàng.

Thuế và phí nhập khẩu thiết bị và triển khai dự án, ngoại trừ thuế VAT.
Các hạng mục chi phí KHÔNG được bao gồm để tính toán phần trả thưởng
Chi phí lao động nội bộ doanh nghiệp và các chi phí nội bộ doanh nghiệp khác để xây dựng và triển khai dự án.
Các chi phí liên quan đến đất và sử dụng đất.
Các chi phí liên quan đến xây dựng, xây dựng lại hoặc phá huỷ nhà xưởng ngoại trừ những công việc này có mối liên quan rõ ràng và mật thiết với việc lắp đặt thiết bị mới.
Chi phí bảo trì và vận hành thiết bị.
Chi phí cho phương tiện giao thông
THÔNG TIN GẦN ĐÂY VỀ QUỸ TÍN DỤNG XANH

Mới đây, Quỹ Tín dụng xanh (Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam) đã ra mắt với sự hỗ trợ 5 triệu USD ban đầu của Thụy Sĩ nhằm khuyến khích các ngân hàng cho doanh nghiệp (DN) vay vốn đầu tư vào các dự án mang lại lợi ích về môi trường và bảo lãnh cho các DN vay vốn từ các ngân hàng

Theo đó, quỹ sẽ tài trợ một phần vốn đầu tư để DN lắp đặt công nghệ sản xuất sạch hơn, giảm đáng kể tác động đến môi trường. Cụ thể, tài trợ 15% đối với công nghệ có cải thiện môi trường hơn 30%; 25% đối với công nghệ cải thiện môi trường hơn 50%. Số tiền tài trợ tối đa là 200.000 USD. Đồng thời bảo lãnh 50% vốn vay của DN tại các ngân hàng. Các ngân hàng Techcombank, ACB, VIB tham gia quỹ có trách nhiệm đàm phán, thiết lập các điều kiện vậy với các DN; đánh giá rủi ro khoản tín dụng, quản lý vốn vay.

Được biết, Quỹ Tín dụng xanh đã xây dựng 15 tiêu chuẩn cụ thể để các DN tự đối chiếu điều kiện vay vốn, như: DN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ; sản xuất từ sáu tháng trở lên ; vốn điều lệ lớn hơn năm triệu USD ; hơn 500 công nhân; DN trong nước hoặc liên doanh nhưng vốn phía Việt Nam phải chiếm hơn 51%. Quỹ chỉ hỗ trợ cho các phương thức sản xuất bền vững, thông qua đầu tư mới, thiết bị mới, dây chuyền sản xuất mới hoặc thay thế, mức tín dụng từ 10.000 USD tới một triệu USD. Đối với các dự án đa dạng hóa mới, tín dụng tối đa là 1,5 triệu USD. Các DN phải tuân thủ các yêu cầu cơ bản về trách nhiệm xã hội và tiêu chuẩn môi trường; giảm phát khí thải nhà kính. Quỹ tín dụng xanh không hỗ trợ cho các sản phẩm hoặc dịch vụ về môi trường xanh.

Đến thời điểm này, Quỹ Tín dụng xanh là quỹ thứ bảy hỗ trợ tài chính cho sản xuất sạch hơn và công nghệ sạch. Đó là Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam (VEPF – 12,7 triệu USD) hỗ trợ xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng; Quỹ Quay vòng kiểm soát ô nhiễm công nghiệp tại các DN TP.HCM (2,5 triệu USD); Quỹ Giảm thiểu ô nhiễm công nghiệp TP.HCM (một triệu USD); Quỹ Bảo vệ môi trường Hà Nội (20 tỷ đồng); Quỹ bảo vệ môi trường ngành than (1% doanh thu của ngành)

Theo biendoikhihau.gov.vn

Công nghệ xanh cho ngành sản xuất xi măng Việt Nam

Ngày 28/6/2011, tại Hà Nội đã diễn ra buổi họp báo và hội thảo về Công nghệ mới trong ngành sản xuất xi măng do Đại sứ quán Đan mạch, Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam và Tập đoàn FLSmidth đồng tổ chức. Hội thảo nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của Chính phủ hai nước Đan Mạch và Việt Nam, của Bộ Xây dựng, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, đại diện Tập đoàn FLSmidth và Tổng Công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam.

Hai công nghệ mới được giới thiệu lần này là hệ thống thu hồi nhiệt thừa và đốt rác thải trong ngành xi măng.

Một mũi tên trúng hai đích

Việc tiết kiệm tiêu thụ nước và năng lượng, cùng với việc giảm thiểu nồng độ khí CO2 là những bước thiết yếu cần thực hiện để đảm bảo tính bền vững của môi trường trong quá trình sản xuất xi măng. Trong một nhà máy xi măng (XM) luôn có một lượng khí thải với nhiệt năng lớn được tạo ra nhưng không có giá trị sử dụng cho quá trình sản xuất. Do đó, phương pháp phát điện từ việc thu hồi nhiệt thừa sẽ là một giải pháp hấp dẫn nhằm đáp ứng những thách thức trên.

Sản xuất xi măng gắn liền với tiêu thụ năng lượng than và điện, khi vận hành lò nung sẽ phát sinh một lượng khí thải và bụi khá lớn ở nhiệt độ cao (khoảng 300oC), chủ yếu tại tầng tháp sấy sơ bộ PH và ghi làm nguội clinker. Quá trình này vừa gây ô nhiễm môi trường, vừa lãng phí năng lượng. Theo tính toán, để sản xuất ra một tấn XM phải tiêu hao khoảng 80KWh điện, nếu tất cả các nhà máy XM lò quay hệ khô hiện có ở nước ta được trang bị hệ thống phát điện tận dụng nhiệt khí thải thì tổng công suất các trạm phát điện đạt khoảng 200MW, giảm được khoảng 20% lượng điện tiêu thụ từ lưới điện.

Việc tận dụng nhiệt khí thải lò nung để phát điện không còn mới lạ đối với các quốc gia có ngành công nghiệp XM phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan. Công nghệ trên đã được ứng dụng từ rất lâu và có quy định bắt buộc nên đa số các nhà máy XM ở các nước này đều lắp hệ thống phát điện từ nhiệt khí thải. Ở Việt Nam, công nghệ này được VICEM tìm hiểu từ những năm 1997, sau đó tổ chức phát triển nguồn năng lượng mới (NEDO) của Nhật Bản đã tài trợ cho nhà máy XM Hà Tiên 2 một trạm phát điện nhiệt khí thải công suất 2,95KW. Đến năm 2011 thì XM Holcim, XM Công Thanh (công suất dự kiến khoảng 4MW), XM Hà Tiên (công suất dự kiến 6MW) cũng đã và đang có kế hoạch cho chương trình này.

Sử dụng hệ thống thu hồi nhiệt thừa, các nhà máy có thể tận dụng nhiệt thừa trong khí thải để sản xuất điện. Trong khi đó, công nghệ khác – đốt rác thải – sẽ đốt rác thải công nghiệp hoặc rác thải sinh hoạt thay thế việc đốt than hiện nay để sản xuất xi măng. Với tổng công suất các doanh nghiệp sản xuất xi măng năm 2011 dự kiến là khoảng 72 triệu tấn (theo số liệu của Bộ Xây dựng), tổng tiêu thụ năng lượng và tài nguyên thiên nhiên cho sản xuất xi măng ngày càng gia tăng.

Theo số liệu báo cáo, tính trung bình với mức tiêu thụ 100kWh điện/tấn xi măng thì với sản lượng 72 triệu tấn XM, tổng mức thiêu thụ điện năng cho sản xuất xi măng ước khoảng 7,2 tỷ kWh điện. Ngoài ra các doanh nghiệp XM còn tiêu thụ một lượng lớn nguyên liệu như than, dầu. Vì vậy công nghệ mới này càng có ý nghĩa hơn vì sẽ giúp giảm thiểu chi phí và lượng điện năng cho việc sản xuất xi măng. Bên cạnh đó, nó còn có ý nghĩa về mặt môi trường bởi vấn đề xử lí rác thải công nghiệp và hộ gia đình hiện nay đang là một thách thức không nhỏ, nên nếu các công nghệ này được áp dụng, có thể xử lí một lượng lớn rác thải vào sản xuất xi măng.

Liệu có khả thi?

Hiện nay, với việc Chính phủ phê duyệt Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020, tầm nhìn 2025, những giải pháp và công nghệ mới thân thiện với môi trường ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Ngoài ra, Nghị định 21/01/NĐ-CP Quy định chi tiết và biện pháp thực hiện luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong các doanh nghiệp trọng điểm tiêu thụ nhiều năng lượng (1000 tấn dầu tương đương) trở lên. Theo quy định này hầu hết các doanh nghiệp xi măng đều thuộc đối tượng trọng điểm. Theo Bộ Xây dựng, định hướng trong thời gian tới là các nhà máy xi măng mới có công suất lò nung từ 2500 tấn clanhke/ngày trở lên bắt buộc phải đầu tư hệ thông thiết bị tận dụng nhiệt thừa khí thải để phát điện, trừ các nhà máy xi măng kết hợp xử lí và sử dụng chất thải công nghiệp và rác thải làm nhiên liệu để tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường.

Ở Việt Nam, Nhà máy Xi măng Kiên Lương (tên mới của Công ty Xi măng Hà Tiên 2) là đơn vị đầu tiên trong ngành Xi măng được Tổ chức phát triển nguồn năng lượng mới (NEDO) của Nhật Bản tài trợ xây dựng một trạm phát điện nhiệt khí thải công suất 2.950 KW. Kể từ khi đưa vào ứng dụng, trạm này đã chứng minh được tính hiệu quả của nó. Bên cạnh đó, Công ty Xi măng Holcim Việt Nam cũng là đơn vị tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ cũng như tận dụng các chất thải để tái chế nguồn nhiên liệu phục vụ cho sản xuất. Công ty này vừa khởi công xây dựng trạm phát điện tận dụng nhiệt thừa khí thải công suất 6 MW với tổng vốn đầu tư 18 triệu USD tại Nhà máy Xi măng Hòn Chông, mỗi năm sản xuất ra 44 triệu KWh điện.

Với công suất đó dự kiến sẽ đáp ứng đủ lượng điện cho toàn bộ Nhà máy Xi măng Hòn Chông vận hành trong 88 ngày, tương đương với lượng điện sinh hoạt cung cấp cho 18.300 hộ gia đình trong một năm, tiết kiệm được 9.000 tấn than đá hoặc 6.450 tấn dầu HFO để sản xuất điện mỗi năm. Ngoài ra, do nhà máy nằm tại vựa lúa Đồng bằng sông Cửu Long, khu vực có nguồn trấu rất lớn nên từ năm 2004 Holcim đã tận dụng nguồn nguyên liệu này thay than để nung clanhke. Đồng thời, Nhà máy Xi măng Hòn Chông còn tận dụng nguồn nhiệt từ nhà máy xử lý chất thải nên năm 2010 đã tiết kiệm được 15,6% điện năng, dự tính năm 2011 này sẽ tiết kiệm được 18%. Như vậy, nếu mô hình này được nhân rộng trong tất cả các nhà máy xi măng trên cả nước thì sẽ tiết kiệm được rất nhiều điện cho quốc gia.

Mặc dù tận dụng nhiệt khí thải lò nung để phát điện được xem là con đường duy nhất ứng phó trong điều kiện đến năm 2015 ngành XM phải tự túc ít nhất 20% nhu cầu điện cho sản xuất, nhưng thực tế cho thấy con số ít ỏi các nhàsản xuất xi măng có đủ điều kiện triển khai đề án này trong thời điểm hiện tại. Theo tính toán, suất đầu tư cho tận dụng nhiệt khí thải để phát điện ít nhất cao gấp 1,5 – 2 lần so với việc dùng điện từ lưới điện quốc gia. Đây cũng là lý do mà các nhà máy chưa mặn mà khi đề cập vấn đề này. Tuy nhiên, không thể vì lý do đó mà né tránh việc đầu tư, bởi hệ thống này có thể giúp các dây chuyền sản xuất xi măng tiết kiệm 20 – 25% lượng điện tiêu thụ, chưa kể những hiệu ứng tích cực khác. Hơn nữa, thời gian hoàn vốn của hạng mục này chỉ khoảng 3 – 5 năm, trong khi hiệu quả kéo dài hàng chục năm. Dẫu biết rằng đầu tư một khoản tiền lớn lúc này là không dễ nhưng các nhà máy không thể không đầu tư.

Hơn nữa, xu hướng giá điện ngày càng tăng nên vấn đề tiết kiệm năng lượng, giảm chi phí đầu vào là nhu cầu thiết yếu của mỗi nhà máy XM.

ximangfico.com

Sản xuất sạch hơn trong chế biến thủy sản

Sản xuất sạch hơn (SXSH) là giải pháp tối ưu giảm thiểu ô nhiễm môi trường

Công nghiệp hóa nhanh chóng là một trong những yếu tố trọng điểm cho sự phát triển của nền kinh tế. Song song với sự bùng nổ là vấn đề ô nhiễm môi trường. Đó cũng là vấn đề xảy ra trong lĩnh vực chế biến thủy sản. Để giải quyết cả hai vấn đề này, Sở TN&MT TP.HCM hướng dẫn, khuyến khích đơn vị sản xuất đi theo mô hình SXSH.

Ý thức cá nhân đóng vai trò quan trọng

Trong chế biến thủy sản, tài nguyên sử dụng nhiều nhất là nước và điện. Đối với nước, các doanh nghiệp (DN) thường lấy từ nước giếng bơm hoặc nước máy. Tùy theo yêu cầu sản phẩm, loại nguyên liệu, dây chuyền công nghệ sản xuất, mức độ tự động hóa, điều kiện làm vệ sinh thiết bị, kỹ năng của người vận hành… mà lượng nước sử dụng sẽ khác nhau. Tại các nhà máy chế biến thủy sản, mức tiêu thụ tối ưu trung bình khoảng 30 m3/tấn thành phẩm. Tuy nhiên, trên thực tế ít có DN nào đạt đến mức tiêu thụ lý tưởng như vậy.

Trong quá trình chế biến, tổn hao nước xảy ra khi công nhân sơ ý, lơ là để van mở khi không sử dụng. Nhiều vòi còn không gắn thiết bị khóa làm nước chảy tràn lan. Điều này dẫn đến lượng nước thải cũng tăng lên. Hơn nữa, do không được kiểm soát, bảo trì thường xuyên nên đường ống, van, co nối bị rò rỉ hay sử dụng thiết bị quá cũ, dụng cụ vệ sinh không hiệu quả… gây hao phí nước. Trong quá trình sơ chế, chúng ta thường sử dụng nước để rửa sạch sản phẩm. Tuy nhiên, nhiều nơi vẫn áp dụng một mô hình lạm dụng quá nhiều nước, dây chuyền không phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.

 Quy trình sản xuất hợp lý trong thủy sản sẽ giúp tăng năng suất và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Ảnh: INTERNET

Để tháo gỡ vấn đề này, chủ DN cần nâng cao ý thức tiết kiệm cho công nhân. Chúng ta có thể đầu tư lắp đồng hồ nước theo dõi để kịp thời phát hiện thất thoát, gắn van tại đầu vòi để thuận tiện cho thao tác đóng mở. Chuyên viên kỹ thuật bảo dưỡng nhà máy cần có các thiết bị phù hợp trên hệ thống cấp nước. Điều đó giúp họ phát hiện và sửa chữa kịp thời những chỗ hư hỏng. Thông thường chúng ta hay dùng vòi nước áp lực để xịt sàn. Khi đó, tất cả lượng rác như đầu, ruột, xương cá, vỏ tôm… sẽ bị đẩy và thu gom ở lưới rác. Tuy nhiên, cách làm này không hiệu quả và gây lãng phí tài nguyên. Thay vào đó, ta có thể sử dụng chổi cao su để thu gom, quét dọn các chất thải rắn. Sau đó mới xịt nước, như vậy sàn rất sạch mà vòi xịt không phải gánh nhiệm vụ là chổi quét. Mặt khác, chúng ta cũng có thể tự đánh giá, hoạch định, xây dựng định mức tiêu thụ nước một cách hiệu quả. Như thế việc quản lý tiêu thụ nước sẽ có cơ sở dễ dàng kiểm soát.

Cải tiến máy móc, thiết bị phù hợp

Mức tiêu thụ điện nhiều hay ít phụ thuộc vào quy trình chế biến, tuổi thọ của thiết bị, hoạt động bảo trì, mức độ tự động hóa, yêu cầu các loại sản phẩm, sự quản lý đặc thù của mỗi nhà máy. Theo thống kê, tiêu thụ điện nhiều nhất là thiết bị đông lạnh với 32%, kế đó là sản xuất đá, kho lạnh. Phần còn lại dành cho sản xuất nước lạnh, bơm, điều hòa không khí, chiếu sáng…

Vấn đề còn tồn tại ở các DN là chưa có kế hoạch quản lý điện năng; thiếu liên kết, chia sẻ thông tin giữa các bộ phận sản xuất. Nhiều nơi chỉ gắn một đồng hồ điện tổng thể để theo dõi cho toàn nhà máy. Với hệ thống lạnh, việc bảo dưỡng và vận hành máy móc, thiết bị vẫn chưa được quan tâm đúng đắn. Trong đó, khâu thiết kế các khay, mâm cấp đông chưa hiệu quả; máy nén không phù hợp với công suất của thiết bị làm lạnh. Mặt khác, ý thức cá nhân cũng là vấn đề quan trọng có tính quyết định.

Ta có thể áp dụng các giải pháp xử lý như xây dựng định mức tiêu thụ điện chuẩn, khoán cho các tổ sản xuất tự quản để làm cơ sở đánh giá. Ban lãnh đạo có thể tổ chức các khóa tập huấn nhằm nâng cao ý thức cho toàn thể cán bộ, công nhân viên. Đặc biệt, chúng ta nên áp dụng chính sách khen thưởng để khuyến khích việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.

Đặc biệt, bộ phận kỹ thuật nên thường xuyên kiểm tra, vệ sinh định kỳ các thiết bị trao đổi nhiệt như bình ngưng, dàn ngưng, dàn bay hơi. Việc cách nhiệt nên tránh sự xâm nhập nhiệt từ bên ngoài và các thiết bị tỏa nhiệt bên trong kho lạnh; đảm bảo độ kín cho kho lạnh, đường ống; che nắng cho dàn giải nhiệt; tối ưu hóa kích thước kho; chế độ bảo quản nguyên liệu như thời gian, nhiệt độ, khối lượng, chế độ xả tuyết… Để tối ưu hóa lợi ích, chúng ta cần xếp sản phẩm vào băng chuyền sao cho tận dụng triệt để diện tích bề mặt. Như thế việc sản xuất sẽ đạt được mục tiêu theo hướng SXSH. Đồng thời, DN nên sử dụng các thiết bị có chức năng tiết kiệm điện như biến tần, máy quản lý điện năng, quạt lò hơi, bơm nước lạnh, bơm nước giải nhiệt, máy nén khí… Một số vấn đề khác cần lưu ý như tận dụng triệt để ánh sáng tự nhiên; sử dụng bóng đèn có hiệu suất chiếu sáng cao; bố trí bóng, công tắc hợp lý; sản xuất trong giờ thấp điểm…

NGỌC CHÂU

Hỗ trợ doanh nghiệp xanh để phát triển bền vững

Để phát triển thành công, mỗi doanh nghiệp (DN) và cấp lãnh đạo cần một tầm nhìn và tư duy mới, hướng tới việc tạo ra những giá trị bền vững và có hành động cụ thể chung tay góp sức vì một thế giới tốt đẹp hơn. Doanh nghiệp chỉ có thể thành công nếu truyền được cảm hứng cho hàng triệu người trên thế giới cùng thực hiện những hành động nhỏ mỗi ngày. Từ đó, góp phần thay đổi thế giới và tạo một cuộc sống bền vững cho tất cả chúng ta.

Đó là sự chia sẻ rất chân tình của ông Doug Baillie, Chủ tịch Phụ trách nhân sự Unilever toàn cầu, cùng các vị lãnh đạo cao cấp của Công ty Unilever Việt Nam với hơn 200 các bạn sinh viên Trường Đại học Ngoại thương TPHCM. Đây cũng là những gì mà Việt Nam nói chung và TPHCM mong muốn hướng tới.

Không đổi môi trường vì kinh tế

Ông Nguyễn Văn Phước, Phó giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường TPHCM, khẳng định, Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng đã hy sinh môi trường hơn 20 năm để phát triển kinh tế. Đến thời điểm này, kinh tế phát triển mạnh nhưng tình trạng suy thoái chất lượng môi trường cũng không ngừng tăng lên. Điển hình nhất là phần lớn kênh rạch, sông ngòi đều nhuốm màu ô nhiễm. Tại TPHCM, chất lượng nước hầu hết các kênh rạch đều ở mức chết. Vi sinh gần như không thể sống được trong nước. Xuất phát từ thực tế đó mà chương trình giảm thiểu ô nhiễm môi trường đã được đề ra và được UBND TPHCM chấp thuận đưa lên làm một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của thành phố từ nay đến năm 2015, tầm nhìn đến 2020.

Để thực hiện mục tiêu này, nhiều giải pháp giảm thiểu phát thải chất thải gây ô nhiễm môi trường đã được đề ra. Cụ thể, tăng cường thanh kiểm tra DN gây ô nhiễm nghiêm trọng; rà soát thống kê tất cả nguồn thải là DN có khối lượng lớn từ 50m³/ngày; buộc tạm ngưng hoạt động nhiều DN tái vi phạm môi trường nghiêm trọng; thực hiện thành công chủ trương xã hội hóa kêu gọi đầu tư nhiều dự án cải tạo hạ tầng xử lý chất thải… Những giải pháp này đã và đang dần tạo nên những chuyển biến mới trong việc cải thiện môi trường.

Tuy nhiên, để tăng tính khuyến khích, từng bước phát huy tính tự giác của DN trong việc thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường, UBND TPHCM đã triển khai chương trình trao giải thưởng Doanh nghiệp xanh. Đây là giải thưởng nhằm tôn vinh những DN thực hiện tốt Luật Bảo vệ môi trường.

Mặt khác, thông qua hình thức tôn vinh sẽ giúp cộng đồng nhận diện rõ hơn đâu là DN xanh và sản phẩm mà họ sản xuất ra. Từ đó, có chính sách kêu gọi cộng đồng ủng hộ tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp.

Tạo sự hỗ trợ đa chiều cho doanh nghiệp

Phó Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường của Sở TN-MT TPHCM Hà Dũng cho biết, giải thưởng Doanh nghiệp xanh được UBND TPHCM triển khai từ năm 2006. Cho đến nay, giải thưởng đã được cải cách nhiều lần nhằm phù hợp hơn với yêu cầu thực tế. Một trong những cải cách được đánh giá cao nhất là kết hợp hình thức khen tặng danh hiệu Doanh nghiệp xanh với vận động cộng đồng ưu tiên tiêu thụ sản phẩm của DN đạt chứng nhận này.

Cụ thể, vào tháng 12 hàng năm sau khi xét tuyển hồ sơ đăng ký của DN xanh, thực hiện thẩm định thực tế đối chiếu với thông tin hồ sơ đăng ký, hội đồng chấm giải sẽ chọn ra những DN tiêu biểu trao chứng nhận Doanh nghiệp xanh. Kế đến, tháng 6 hàng năm, ban tổ chức sẽ tổ chức chiến dịch tiêu dùng sản phẩm xanh. Chiến dịch được thực hiện xuyên suốt một tháng.

Theo đó, những thông tin thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường và sản phẩm của DN xanh sẽ được thông qua tình nguyện viên đưa đến cho cộng đồng. Các tình nguyện viên sẽ trực tiếp đến từng khu phố, từng hộ dân để vận động cộng đồng ưu tiên tiêu thụ sản phẩm của DN xanh.

Bà Quách Tố Dung, Phó giám đốc thường trực Sở Công thương, khẳng định, cách làm trên cũng là hình thức phát huy quyền của người tiêu dùng. Nếu đẩy mạnh được hoạt động này, góp phần tạo nên thói quen tiêu dùng xanh trong cộng đồng sẽ rất có lợi cho việc cải thiện chất lượng môi trường sống. Khi người dân chỉ chọn sản phẩm của các DN thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường thì chắc chắn sẽ buộc các DN phải tự hoàn thiện mình để sản xuất xanh, sạch và thân thiện với môi trường hơn để được người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn. Và nếu ngày càng có nhiều DN xanh như thế thì rõ ràng là môi trường sống sẽ xanh hơn, an toàn hơn cho sức khỏe của cộng đồng.

Ông Hà Dũng cũng cho biết thêm, ngoài việc thẩm định và chứng nhận DN đạt tiêu chí giải thưởng Doanh nghiệp xanh, từ năm 2012 trở đi, Ban tổ chức sẽ hỗ trợ, tư vấn giúp DN hoàn thiện hơn khâu bảo vệ môi trường, tạo điều kiện để họ thực hiện tốt luật bảo vệ môi trường và hướng tới đạt chứng nhận Doanh nghiệp xanh.

Trên thực tế, Bộ Y tế đã đưa ra con số cảnh báo khi mỗi năm nước ta có khoảng 20.000 người chết vì bệnh ung thư do tiếp xúc phải nguồn thải ô nhiễm. Và nếu tình trạng suy thoái môi trường hiện nay không sớm được ngăn chặng thì khó để kiểm soát được vấn đề an toàn sức khỏe cho cộng đồng.

Ông Doug Baillie nhấn mạnh thêm, thế giới hiện đại ngày nay đang phải đối mặt: dân số tăng lên chóng mặt, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, khí hậu biến đổi nhanh, thiếu lương thực, bệnh tật do sử dụng nguồn nước ô nhiễm, ý thức vệ sinh kém…

Đồng thời, đặt ra một bài toán cho tất cả mọi người, từ chính phủ đến các DN, cần tìm một mô hình phát triển mới cân bằng được lợi ích kinh tế và vấn đề bảo vệ môi trường. Đây là một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21, không chỉ buộc các chính phủ và DN hành động kịp thời, mà còn là vấn đề mà cộng đồng, đặc biệt là các bạn trẻ – những người chủ tương lai củađất nước cần ý thức ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.

(sggp.org.vn)

Các Bài Viết Liên Quan => Quỹ đầu tư Sản Xuất sạchmôi trường xanh Vay Tiềnsản xuất sạch hơnBảo lãnh

Công nghệ xanh: Chiến lược lợi nhuận mới cho DN

Với khả năng tăng năng suất, tiết kiệm vòng đời sản phẩm, tăng tính bền vững và những chính sách ưu đãi từ chính phủ, ngày càng có nhiều công ty trên thế giới áp dụng công nghệ xanh vào sản xuất, không chỉ nhằm bảo vệ môi trường, mà nhằm gia tăng tối đa lợi nhuận.

General Electric đang áp dụng các mô hình công nghệ xanhCôngThương –

Bài học từ cửa hàng hamburger lớn nhất Thụy Sỹ. Mọi người thường cho rằng những lời kêu gọi hướng tới một “hành tinh xanh, kinh tế xanh” chỉ đến từ những chính trị gia hay những tổ chức bảo vệ môi trường. Nhưng trên thực tế, rất nhiều doanh nghiệp, từ nhỏ đến lớn, bắt đầu áp dụng công nghệ xanh vào hoạt động của mình để hướng tới một mô hình bền vững với lợi nhuận cao hơn.

Max Burgers – chuỗi cửa hàng ăn nhanh nổi tiếng của Thụy Sỹ, đã bắt đầu thực hiện các chính sách “xanh” cùng với chiến dịch kinh doanh của mình từ năm 2006. Cửa hàng chỉ mua duy nhất năng lượng từ sức gió và bù đắp toàn bộ lượng CO2 mình thải ra bằng cách trồng một lượng cây tương đương tại Uganda. Cửa hàng cũng đưa ra những chính sách để cắt giảm bớt 20% lượng điện tiêu thụ.
Đến năm 2008, Max đưa thêm nhãn CO2 vào trong thực đơn của mình, với thông số chính xác về lượng CO2 trong từng gói khoai chiên hay trong mỗi món ăn. Cửa hàng cũng đồng thời đưa ra cảnh báo về việc sản xuất thịt bò trong các loại burger tạo ra lượng CO2 cao gấp 5 lần so với các loại burger chay và 6 lần so với sandwich cá. Bằng những chỉ báo này, cửa hàng hy vọng khách hàng sẽ có những lựa chọn phù hợp hơn.

Max là doanh nghiệp đầu tiên đưa nhãn CO2 vào thực đơn, với thông số chính xác về lượng CO2 để khách hàng lựa chọn

Và họ đã thành công. Khách hàng khi tới Max Burgers bắt đầu lựa chọn những loại burger không có thịt bò còn doanh số các loại burger ít tạo ra CO2 hơn tăng 16%. Nhờ vào chiến lược này, Max Burgers đã tăng trưởng mạnh.
Từ năm 2005 đến năm 2011, Max đã mở thêm 45 cửa hàng mới và tăng gấp đôi thị phần tại Thụy Sỹ. Năm 2008 – năm mà cửa hàng thêm nhãn CO2 vào trong thực đơn của mình – Max trở thành chuỗi cửa hàng burger được nhiều người tìm đến nhất Thụy Sỹ, vượt qua Mc Donald bất chấp việc Mc Donald có số lượng cửa hàng nhiều gấp 3 lần Max tại Thụy Sỹ.
Những sáng kiến xanh thực sự đem lại lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh cho công ty. Theo một cuộc điều tra của Mindshare, những sáng kiến xanh đã tăng cường lòng trung thành của khách hàng đối với sản phẩm của Max, đồng thời tăng thêm 27% lượng khách trong giai đoạn từ 2007 – 2009. Thêm vào đó, họ còn thu về những khách hàng mới. Những người ăn chay giờ đây cũng tìm đến Max burger để thưởng thức Greenburgare, salad đậu hay sữa dâu lắc.
Với lợi nhuận hàng năm lên đến 16%, Max trở thành một trong những cửa hàng có lợi nhuận cao nhất nước. Hiện tại, cửa hàng này đang mở rộng dịch vụ sang Nauy và các quốc gia thuộc EU.
Chiến lược sử dụng công nghệ xanh
Max Burgers không phải là doanh nghiệp duy nhất triển khai các chiến lược xanh vào trong sản phẩm của mình. Nhìn thấy lợi nhuận cũng như khả năng phát triển bền vững từ việc áp dụng công nghệ xanh, nhiều công ty lớn trên thế giới cũng đang áp dụng các mô hình tương tự. Chẳng hạn như General Electric (GE). Kể từ năm 2006, công ty này đã bán được 12 tỉ USD sản phẩm có lợi cho môi trường (bao gồm cả pin mặt trời). GE cũng đang tiến hành làm sạch con sông Hudson mà mình từng làm ô nhiễm.
Starbucks cũng là một ví dụ điển hình. Bằng việc sử dụng cốc café bằng giấy tái chế từ năm 2006, hãng café này đã giúp giảm 78000 cây bị chặt mỗi năm. Công ty này cũng có liên kết với nhiều tổ chức môi trường trong nỗ lực thực hiện các hoạt động có ích cho cộng đồng.
Ngoài ra, còn vô số những thương hiệu nổi tiếng khác như Walmart, Bank of America, Coca-cola, Toyota, Dell, HP,… đang áp dụng những công nghệ xanh ngày càng nhiều vào trong chiến lược phát triển của mình.
Không chỉ các doanh nghiệp lớn, nhiều vốn mới có thể áp dụng công nghệ xanh vào trong sản phẩm của mình. Nhiều doanh nghiệp nhỏ cũng nhận ra rằng, việc sử dụng công nghệ xanh có thể tốn một khoản tiền đầu tư cao hơn một chút so với công nghệ thông thường, nhưng lại giúp tiết kiệm một khoản tiền lớn trong thời gian dài, tăng cường sản xuất và tính bền vững của thị trường nếu áp dụng đúng cách.
Randal Palach, CEO của NextEnergy, một doanh nghiệp nhỏ tại Detroit cho biết, công ty của ông đã áp dụng những phương pháp xanh ngay từ khi bắt đầu hoạt động, thay vì chuyển đổi từ từ như nhiều công ty khác. Mặc dù chi phí ban đầu có vẻ cao hơn, nhưng những chi phí về sau ngày càng thấp và tiết kiệm hơn.
Thêm vào đó, tại nhiều quốc gia những doanh nghiệp áp dụng công nghệ xanh vào trong hoạt động sẽ được hưởng nhiều ưu đãi của chính phủ. Ở Mỹ, doanh nghiệp áp dụng công nghệ xanh sẽ được gia hạn 5 năm để hoàn vốn theo chương trình khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ xanh.
Palach thống kê, nếu một doanh nghiệp nhỏ sử dụng thiết kế xanh và năng lượng mặt trời, chi phí có thể cao hơn khoảng 50%. Doanh thu về cũng không thể nhảy vọt ngay lập tức, tuy nhiên, vòng đời của công nghệ xanh sẽ tự hoàn trả lại vốn đầu tư ban đầu. Trong khi đó, công nghệ cũ có thể sẽ khiến doanh nghiệp nhỏ phải trả tốn thêm tới 75% chi phí bảo hiểm.
“Nếu nhìn vào chi phí theo từng tháng thì nó có vẻ cao hơn, nhưng chi phí quay vòng lại thấp hơn, và giúp bạn tiết kiệm được rất nhiều tiền. Đó là cách thu hồi vốn đầu tư hiệu quả nhất. Thêm vào đó, di chuyển theo mô hình xanh không chỉ mang ý nghĩa kinh tế, mà còn tăng cường chất lượng cuộc sống của nhân viên”, Palach nói.
“Công nghệ xanh” (Green Technology) dùng để chỉ sự áp dụng các kiến thức khoa học vào trong thực tế của đời sống trước cơ ô nhiễm toàn cầu, tạo dựng và tiêu dùng năng lượng qua chiều hướng phát thải phế thải không độc hại hay ít độc hại ngõ hầu hạn chế được vấn nạn hâm nóng toàn cầu hiện tại.
Công nghệ xanh bao gồm:
– Phát triển bền vững bằng những công nghệ thân thiện với môi trường (friendly), không làm tổn hại đền nguồn tài nguyên thiên nhiên hay ảnh hưởng nguy hại đến những thế hệ tương lai.
– Tạo dựng một chu trình kín trong sản xuất, nghĩa là phế phẩm của một quy trình sẽ là nguyên liệu của một quy trình sản xuất khác.
– Giảm thiểu tối đa phế thải độc hại và tăng cường khả năng tái tạo sản phẩm cũ thành nguyên liệu mới.
– Trong nông nghiệp, sáng tạo công nghệ mới thay vì sư dụng phân bón và hoá chất.
– Công nghệ xanh đòi hỏi cần phải sử dụng năng lượng hợp lý hoặc giảm thiểu hầu bảo vệ mội trường thiên nhiên.
– Hóa học xanh cũng là một yếu tố quan trọng góp phần vào việc giải quyết công nghệ xanh.