Toạ đàm về Sản xuất sạch hơn và Định hướng phát triển Công nghiệp với đoàn nghiên cứu thực tế của CHDCLB Ethiopia

Ngày 15/5/2007, Cục Kiểm lâm Hoa Kỳ (The US Forest Service) phối hợp với Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) đã tổ chức tiếp đón đoàn đại biểu cấp Bộ của nước Cộng hoà Dân chủ Liên bang Ethiopia và chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn triển khai Sản xuất sạch hơn và định hướng phát triển Công nghiệp xanh.

Nằm trong khuôn khổ chuyến đi nghiên cứu thực tiễn của đoàn đại biểu cấp Bộ nước Cộng hòa Dân chủ Liên bang Ethiopia gồm Bộ  Môi trường, Lâm nghiệp và Biến đổi khí hậu (MEFCC), Bộ Công nghiệp (MOI) và Tổng Công ty Phát triển Khu Công nghiệp (IPDC) từ 15 – 19/5 tại Việt Nam, ngày 15/5, đoàn đã có buổi tọa đàm học hỏi và trao đổi kinh nghiệm với VNCPC và đại diện Bộ Công Thương Việt Nam.

Đại diện trường Đại học Bách Khoa HN, đơn vị chủ nhà buổi tọa đàm, PGS. Nguyễn Phú Khánh, Trưởng phòng HTQT đã có bài chào mừng đoàn và chia sẻ quan điểm của Nhà trường về định hướng phát triển bền vững và công nghiệp xanh.

Ethiopia cũng như Việt Nam được xem là một trong số những quốc gia nhạy cảm nhất với biến đổi khí hậu trên thế giới. Chính vì vậy, với mong muốn học tập thực tế về mô hình phát triển công nghiệp xanh, đoàn đã được nghe các bài tham luận về kinh nghiệm triển khai Sản xuất sạch hơn ở Việt Nam, thực tiếp cận chuỗi giá trị bền vững sản phẩm cá tra (SUPA), cơ chế hỗ trợ tài chính cho đầu tư công nghệ thân thiện hơn với môi trường (GCTF) và đặc biệt là chiến lược Sản xuất sạch của Việt Nam tới năm 2020 cũng như kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh 2015 – 2020 của ngành Công Thương Việt Nam. Đáp lại những thông tin chia sẻ từ phía Việt Nam thông qua các diễn giả là ông Chu Văn Giáp (Vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương), bà Kiều Nguyễn Việt Hà (Văn phòng giúp việc Ban Điều hành Chiến lược SXSH trong Công nghiệp), ông Trần Văn Nhân, ông Lê Xuân Thịnh và bà Nguyễn Lê Hằng (VNCPC), các thành viên của đoàn Ethiopia cũng đã giới thiệu về Chiến lược Nền kinh tế xanh phục hồi khí hậu (Ethiopia’s Climate Resilient Green Economy) với tiếp cận theo ngành trong cách thức triển khai.

Trong khuôn khổ hoạt động chuyên sâu về xúc tiến nâng cao hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn, cũng như xây dựng các mẫu hình sản xuất và tiêu thụ bền vững ở Việt Nam, VNCPC luôn chú trọng kết nối mạng lưới với các bên liên quan hoạt động trong cùng lĩnh vực và hỗ trợ lẫn nhau, để góp phần tích cực trong sự nghiệp xanh hóa nền sản xuất công nghiệp, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển nền kinh tế xanh, hướng tới sự phát triển bền vững của đất nước.

PGS. Nguyễn Phú Khánh, Trưởng phòng Hợp tác Quốc tế trường Đại học Bách Khoa Hà Nội chào mừng đoàn.

Các đại diện từ Bộ Công Thương và VNCPC đang trao đổi kinh nghiệm với đoàn

Đoàn đại biểu Ethiopia và Cục Kiểm lâm Hoa Kỳ chụp ảnh lưu niệm với VNCPC

Nguồn: vncpc.org

Tiền khảo sát khả năng tiếp cận “Quỹ Uỷ thác Tín dụng xanh “ (GCTF) của Dự án “Xây dựng nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt sản xuất điện sinh khối và than sinh học tại thành phố Hà Giang”

Ngày 20/5/2016, đoàn chuyên gia của VNCPC – đơn vị thẩm định kỹ thuật của Quỹ Uỷ thác tín dụng xanh đã có chuyến đi tiền khảo sát về kỹ thuật đối với dự án “Xây dựng nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt sản xuất điện sinh khối và than sinh học tại thành phố Hà Giang”.

Hiện tại, Thành phố Hà Giang và các huyện lỵ lân cận biện pháp xử lý rác thải sinh hoạt phổ biến hiện nay là chôn lấp. Phương pháp này có giá thành rẻ nhưng đòi hỏi diện tích đất lớn, trong lúc quỹ đất hiện nay rất hạn chế. Mặt khác, phương pháp này không có khả năng thu hồi, tái chế nguồn nguyên liệu từ rác thải, đồng thời nảy sinh yêu cầu xử lý nước rỉ rác. Đây là công việc khó khăn, phức tạp không kém việc xử lý rác. Và với định hướng phát triển du lịch thì dự báo cho biết tổng lượng rác thải tại các khu vực này sẽ không ngừng tăng lên trong thời gian tới.

IMG_0146

Bãi chôn lấp rác thải thành phố Hà Giang

Trước tình hình đó, Công ty Cổ phần tư vấn đầu tư xây dựng 68 – Hà Giang đã đề xuất xây dựng nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt sử dụng hệ thống công nghệ nhiệt khí hóa tồn tính thu hồi năng lượng để sản xuất điện sinh khối và than đen nhiệt lượng cao không khói, công suất 50 tấn/ngày đêm. Nếu được đưa vào hoạt động, dự kiến dự án sẽ xử lý triệt để khối lượng rác thải phát sinh cho địa bàn Thành Phố Hà Giang với tổng khối lượng rác thải sinh hoạt được xác định là 18.000 Tấn /năm. Về mặt hiệu quả xã hội, dự án xử lý rác thải trên địa bàn không chỉ góp phần tích cực trong công tác thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt đô thị mà còn nâng cao nhận thức cho người dân, từng bước đưa công tác vệ sinh môi trường trở thành trách nhiệm của cả cộng đồng, giải quyết công ăn việc làm cho trên 100 người lao động, tăng thu nhập, ổn định đời sống, góp phần đảm bảo an ninh kinh tế cho khu vực địa phương nói riêng và toàn tỉnh nói chung. Về mặt hiệu quả kinh tế, dự án sẽ thu hồi tài nguyên, năng lượng tái tạo, sản phẩm thu được là Gas DME và than sinh học, từ đó sử dụng sản phẩm Gas thu được để phát điện với công suất 800 KVA/H và 8% là than đen bán ra thị trường.

IMG_0143

 Đoàn chuyên gia VNCPC làm việc với ông Lục Chu Sơn – Giám đốc Công ty Cổ phần  tư vấn đầu tư xây dựng 68 – Hà Giang

Tại buổi làm việc, đoàn chuyên gia VNCPC đã có những trao đổi thông tin và kỹ thuật với ông Lục Chu Sơn – Giám đốc Công ty Cổ phần tư vấn đầu tư xây dựng 68 – Hà Giang. Sau buổi thảo luận này, các chuyên gia sẽ tính toán kỹ thuật để xem xét khả năng dự án đạt được các tiêu chí đề ra của Quỹ GCTF và sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận với nguồn tín dụng xanh.

Theo VNCPC admin

Bài phát biểu tuyệt vời của Thủ tướng Bhutan về Chương trình Chống biến đổi khí hậu của quốc gia nhỏ bé này

Hội nghị Công ước khung các nước về Biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc (COP 21) năm 2016 đặt ra kỳ vọng nhằm hạn chế nhiệt độ địa cầu gia tăng không quá 2 độ C. 

Các nhà khoa học khẳng định, nếu không kiểm soát thành công ngưỡng nhiệt độ này, Trái Đất sẽ rơi vào một chu kỳ thảm họa vô cùng thảm khốc và khó có thể đảo ngược. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính rằng biến đổi khí hậu là nguyên nhân gây ra cái chết cho 141.000 người mỗi năm và con số này dự kiến sẽ còn tăng lên tới 250.000 người tới trước năm 2050. Trong khi đó, ngân hàng Thế giới (WB) ước tính, sự nóng lên toàn cầu sẽ đẩy 100 triệu người phải lâm vào tình cảnh đói khổ, thiếu lương thực, thuốc men và các đồ dùng sinh hoạt hàng ngày trước năm 2030.

Trong khi vẫn các chính phủ còn mải tranh cãi và đổ lỗi cho nhau về nguyên nhân gây biến đổi khí hậu ở COP 15 (Copenhagen, 2009) thì Bhutan, là một quốc gia nhỏ bé ở khu vực Hy-ma-lay-a, đã tuyên hứa duy trì phát thải cacbon ở mức 0. Cho tới COP21, họ vẫn giữ lời hứa như vậy. Hãy cùng theo dõi câu chuyện chống biến đổi khí hậu ở Bhutan, một đất nước coi Tổng Hạnh phúc quốc dân quan trọng hơn Tổng sản phẩm quốc nội.

tshering-tobgay1

Thủ tường Bhutan – Tshering Tobgay phát biểu tại Hội nghị TED2016 – diễn ra từ ngày 15-19/2/2016 tại Trung tâm Hội nghị Vancouver, Vancouver, Canada. (nguồn ảnh: blog.ted.com)

Theo vncpc.org

Giải pháp thúc đẩy sản xuất xanh

Bà Nguyễn Lê Hằng – Điều phối viên Quỹ Uỷ thác Tín dụng xanh (GCTF) – Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam trả lời phỏng vấn trong chương trình “Câu chuyện hội nhập” – Kênh truyền hình Nhân dân về chủ đề những giải pháp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua được những khó khăn và rào cản để ứng dụng mô hình sản xuất xanh vào doanh nghiệp của mình. 

Screen Shot 2016-04-13 at 10.12.01 AM

 

Link video phỏng vấn

 

Điều phối viên Quỹ Tín dụng xanh (GCTF) trả lời phỏng vấn tạp chí Thời báo Kinh tế Việt Nam (VET)

Bà Nguyễn Lê Hằng, đến từ Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam – Điều phối viên Quỹ Uỷ thác Tín dụng xanh (GCTF) trả lời phỏng vấn tạp chí Thời báo Kinh tế Việt Nam (VET) về tăng trưởng tín dụng xanh và tương lai phát triển của mô hình này tại Việt Nam.

IMG_5107

 

  • Bà đánh giá thế nào về phát triển tăng trưởng xanh dưới dạng các chính sách và những khó khăn có thể gặp phải tại Viêt Nam?

Tín dụng xanh là một chính sách của ngành tài chính ngân hàng nhằm hỗ trợ các hoạt động đầu tư kinh doanh có tác động tích cực tới chất lượng môi trường. Vì vậy tín dụng xanh góp phần mang tới cho xã hội những lợi ích to lớn cả về tăng trưởng, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân cũng như bảo vệ môi trường.

Vấn đề tín dụng xanh được nhiều nước trên thế giới đặc biệt quan tâm từ nhiều năm nay. Sản phẩm tín dụng xanh của các ngân hàng thường hướng vào các dự án tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo và công nghệ sạch. Các lĩnh vực ưu tiên này tùy thuộc vào chính sách tín dụng xanh ở từng quốc gia và khu vực.

  • Mô hình tín dụng xanh hiện đang được phát triển như thế nào tại Việt Nam? Tiêu chuẩn như thế nào để một dự án có thể nhận được hỗ trợ từ GCTF? 

Trách nhiệm của ngành ngân hàng là giữ vai trò quan trọng trong việc điều tiết và cấp vốn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Do đó, nếu các ngân hàng có những yêu cầu nhất định đối với các dự án vay vốn khi thực hiện phải bảo đảm những quy định về môi trường và an sinh xã hội thì sẽ góp phần hạn chế các dự án gây ô nhiễm, gây ảnh hưởng xấu đến người dân và khuyến khích các doanh nghiệp hướng tới các hoạt động sản xuất, kinh doanh sạch, an toàn hơn. Tuy nhiên, cho đến trước khi có Nghị định 03 thì hầu hết các ngân hàng trong nước chưa quan tâm nhiều tới tiêu chí bảo vệ môi trường khi xem xét phê duyệt các dự án nào vay vốn của doanh nghiệp.

Hiện đã có một số tổ chức quốc tế đang hoạt động ở Việt Nam như Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC) đã có bộ tiêu chuẩn về môi trường, xã hội mà các dự án và đối tác vay vốn hoặc tư nhân tài trợ phải tuân theo.

Để lựa chọn một dự án được hỗ trợ tài chính theo dòng tín dụng xanh của GCTF, có một số tiêu chí được đưa ra đối với doanh nghiệp liên quan quy mô, loại hình, ngành nghề doanh nghiệp, loại dự án, chỉ số môi trường của dự án. Các doanh nghiệp cần tham khảo các lựa chọn công nghệ để có thể đề xuất một phương án phù hợp nhất với quỹ (1 chỉ số về tác động môi trường sau dự án đầu tư được đánh giá đạt giảm ít nhất 30% so với hiện tại).

  • Xin bà chia sẻ thêm về những thành quả mà GCTF đã đạt được trong quá trình hoạt động tại Việt Nam? GCTF gặp những khó khăn gì trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp không

Quỹ Ủy thác tín dụng xanh (GCTF) do Chính phủ Thụy Sĩ (SECO) thành lập ở Việt Nam nhằm hỗ trợ các DN đầu tư các công nghệ sản xuất có hiệu suất cao và thân thiện với môi trường. Được thành lập vào cuối 2007, đây là một trong những hoạt động tín dụng xanh đầu tiên ở Việt Nam nhằm tới ngành sản xuất công nghiệp và một số ngành dịch vụ để đầu tư phát triển gắn liền với bảo vệ môi trường.Bên cạnh đó, GTF cũng có mong muốn quan trọng là hỗ trợ các ngân hàng thương mại thấy được sự cần thiết để phát triển một loại hình sản phẩm tín dụng mới dành cho khối doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, thực tế cho thấy cũng có một số khó khăn nhất định, ví dụ: khả năng tiếp cận thông tin và chính sách (tài chính và công nghệ) của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế; một số doanh nghiệp tiếp cận với Quỹ nhưng lại không được Ngân hàng phê duyệt khoản vay vì nợ xấu, v.v…

  • Theo bà, tín dụng xanh liệu có phải mô hình tăng trưởng mới cho Việt Nam không? Tại sao? 

Theo ý kiến cá nhân tôi thì tín dụng xanh là một công cụ để giúp tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững.

Đặc thù của rất nhiều doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay là vẫn vận hành nhiều công nghệ thiết bị cũ, vừa tiêu hao nhiều tài nguyên đồng thời gây phát thải tác động xấu tới môi trường. Tuy nhiên, rào cản lớn nhất đối với các DN để đổi mới trang thiết bị theo hướng thân thiện với môi trường hơn chính là mức đầu tư cần thiết thường khá cao. Phần lớn các DN vừa và nhỏ ở Việt Nam thường gặp khó khăn về vốn và không đủ tài sản thế chấp để tiếp cận được với nguồn cho vay tín dụng tại các NH. Khó khăn này đã làm DN giảm động lực đổi mới công nghệ nhằm tăng cường hiệu quả sản xuất và giảm tác động môi trường. Khi ngân hàng triển khai dòng tín dụng xanh thì rào cản này sẽ giảm nhẹ đi rất nhiều.

  • Bà nhận xét như thế nào về các chính sách hỗ trợ tín dụng xanh? 

Để đẩy mạnh phát triển tín dụng xanh ở Việt Nam cần có sự vào cuộc của cả cơ quan quản lý là Ngân hàng nhà nước, các tổ chức tín dụng và đặc biệt cần tăng cường nhận thức cho doanh nghiệp về bảo vệ môi trường, đặc biệt là quan điểm “một mũi tên trúng 2 đích” nghĩa là có nhiều giải pháp bảo vệ môi trường mang lại các lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp chứ không đơn thuần là tăng gánh nặng chi phí. Do đó, cần tăng cường năng lực nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cho nhóm các chuyên gia tư vấn kỹ thuật; tăng cường năng lực xem xét thẩm định các dự án tăng trưởng xanh cho khối NH; tăng cường sự kết nối giữa 3 khối trên với sự gắn kết và thông tin từ cơ quan quản lý nhà nước.

  • Bà dự đoán như thế nào về sự phát triển tín dụng xanh trong 3 năm tới đây?

Với chỉ thị 03 đã đi vào thực thi, cũng như các dự thảo chính sách, chiến lược, chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu thụ bền vững, bảo vệ môi trường hay phát triển bền vững đang được xây dựng và sớm đi vào thực tiến thì Tín dụng xanh là một công cụ tài chính không thể thiếu trong giai đoạn phát triển tới đây của đất nước.

Theo Tạp chí Thời báo Kinh tế Việt Nam

GCTF Admin

 

 

Tín dụng xanh: Mô hình tăng trưởng mới cho Việt Nam

Với vai trò là trung gian tài chính, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ngân hàng đóng góp quan trọng vào việc phát triển bền vững kinh tế – xã hội của đất nước. Do đó, các chính sách tín dụng xanh đang là giải pháp quan trọng hướng nền kinh tế tới mục tiêu tăng trưởng xanh.

Hướng đi tất yếu1738273

Hưởng ứng Chiến lược tăng trưởng xanh năm 2012 và Kế hoạch hành động Quốc gia về tăng trưởng xanh năm 2014 của Chính phủ, đầu năm 2015, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Chỉ thị thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong các hoạt động cấp tín dụng. Theo đó, từ năm 2015, hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại được khuyến khích ưu tiên cho các dự án, phương án sản xuất, kinh doanh thân thiện với môi trường và xã hội, qua đó thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Thông qua Chỉ thị 03, Thống đốc NHNN yêu cầu Vụ Tín dụng các ngành kinh tế chủ trì, phối hợp với các đơn vị khác triển khai xây dựng và thực hiện các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh theo định hướng, mục tiêu Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đã được phê duyệt. Đồng thời, chỉ đạo chi nhánh NHNN tại các địa phương tham mưu cho lãnh đạo NHNN nhằm triển khai có hiệu quả Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 – 2020. Riêng đối với các tổ chức tín dụng, Thống đốc yêu cầu mỗi đơn vị căn cứ trên chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cũng như kế hoạch hành động của bộ, ngành và ủy ban nhân dân (UBND) các tỉnh, thành phố để triển khai xây dựng chương trình, chính sách tín dụng xanh cụ thể cho đơn vị của mình nhằm tăng dần tỷ trọng tín dụng xanh trong cơ cấu danh mục đầu tư tín dụng.

Thực tế cho thấy, trong 4 – 5 năm trở lại đây, một số tổ chức tài chính quốc tế hoạt động tại Việt Nam như WB, IFC, ADB đã có bộ tiêu chuẩn về môi trường, xã hội mà các dự án và đối tác vay vốn hoặc nhận tài trợ của họ phải tuân theo. Sau khi mở rộng phạm vi hoạt động cũng như tăng cường mạng lưới liên kết, tính đến thời điểm hiện nay đã có hàng chục ngân hàng thương mại trong nước tham gia thực hiện bộ tiêu chuẩn này. Tiêu biểu có thể kể đến các ngân hàng lớn như ACB, Sacombank, Techcombank, VietinBank, VIB… Các ngân hàng này thông qua Quỹ ủy thác tín dụng xanh (GCTF) do Chính phủ Thụy Sỹ thành lập tại Việt Nam đã bắt đầu triển khai khá hiệu quả các hoạt động cho vay có bảo lãnh đối với các dự án thân thiện với môi trường. Hầu hết các dự án được xem xét cho vay vốn đều được bảo lãnh 50% và hoàn trả một phần (25%) khi hoàn công và bàn giao cho bên sử dụng.

Theo một số nghiên cứu đánh giá của Tổ chức PanNature, hiện nay đa số cán bộ tín dụng của các ngân hàng thương mại trong nước chưa thực sự quan tâm đến các rủi ro về môi trường, xã hội khi thẩm định dự án. Tuy nhiên, theo những khảo sát của GCTF, thì xu hướng mở rộng các điều kiện xem xét cho vay đối với các dự án có tính đến yếu tố tác động môi trường đang được nhiều ngân hàng thương mại bắt đầu thực hiện.

Ghi nhận của GCTF tính đến thời điểm hiện nay đã có trên 60 doanh nghiệp tại Việt Nam gửi hồ sơ tham gia chương trình hỗ trợ tín dụng theo chương trình tín dụng xanh. Trong đó, 40 hồ sơ đã đủ các điều kiện sàng lọc ban đầu, 30 dự án đã được phê duyệt kỹ thuật và 12 dự án đã được các ngân hàng thương mại giải ngân cho vay.

Bên cạnh đó, ngoài Quỹ GCTF, còn có một số quỹ tín dụng xanh khác cũng đang hoạt động khá hiệu quả như Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam và Quỹ Quay vòng (tại thành phố Hồ Chí Minh). Tính đến cuối năm 2014, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam đã cho vay hơn 566 tỷ đồng với tổng số 113 dự án. Quỹ Quay vòng kiểm soát ô nhiễm công nghiệp tại các doanh nghiệp thành phố Hồ Chí Minh cũng đã cho vay khoảng 100 dự án với lãi suất 4%/năm.

Khi tham gia vay vốn tại các quỹ tín dụng xanh thông thường thời gian xem xét cho một dự án là 75 ngày. Các dự án đổi mới thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp nếu đạt được tiêu chí về giảm thiểu tác động đến môi trường sẽ nhận được hỗ trợ tài chính từ quỹ theo 2 hình thức là bảo lãnh tối đa 50% tổng giá trị khoản vay hoặc thưởng từ 15 – 25% tổng giá trị khoản vay tùy từng trường hợp.

Như vậy, mặc dù mới chỉ là những bước đi ban đầu, nhưng hoạt động cho vay có bảo lãnh thông qua các quỹ tín dụng xanh đã được các ngân hàng thương mại trong nước hưởng ứng khá tích cực. Với xu hướng ngày càng chú trọng nhiều hơn đến quản trị rủi ro đối với các khoản vay, rõ ràng Chỉ thị 03 mà NHNN vừa ban hành là một trong những động cơ kích thích các tổ chức tín dụng có những “bước đi” mạnh dạn và cụ thể hơn trong lộ trình xây dựng bộ tiêu chuẩn “ngân hàng xanh” trên phạm vi toàn hệ thống.

Theo TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng (NHNN), với vai trò là trung gian tài chính, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ngành ngân hàng đã có những đóng góp quan trọng vào việc phát triển bền vững kinh tế – xã hội của đất nước. Do đó, các chính sách tín dụng xanh là giải pháp quan trọng hướng nền kinh tế tới mục tiêu tăng trưởng xanh. Theo bà Thanh, tín dụng xanh đem lại những lợi ích rất lớn cả về tăng trưởng, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân và bảo vệ môi trường. “Vấn đề ngân hàng xanh, tín dụng xanh đang được nhiều nước trên thế giới đặc biệt quan tâm, tuy nhiên, tại Việt Nam hoạt động này còn mới mẻ, các giải pháp về tài chính xanh, ngân hàng xanh còn ít và chưa được triển khai rộng rãi trong toàn ngành”, bà Thanh chia sẻ.

Thêm nhiều ưu đãi và giải pháp hỗ trợ

Một chuyên gia của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, nếu để giảm cường độ rác thải từ 8 – 10%/năm hoặc có thể tăng gấp đôi nếu có sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, thì từ nay đến năm 2020 sẽ cần khoảng 30 tỷ USD tiền vốn, trong đó có khoảng 30% từ ngân sách nhà nước, 70% còn lại là từ khu vực tư nhân. Ước tính hàng năm chi cho biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh cũng chiếm trên 10% chi thường xuyên của Chính phủ. Do vậy, để đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh đề ra, vai trò của ngành ngân hàng là rất quan trọng.

Cũng theo chuyên gia trên, nếu ngân hàng chỉ đưa ra những sản phẩm như bình thường thì rất khó tăng tín dụng xanh, bởi các dự án tăng trưởng xanh không phải là dự án luôn đem lại lợi nhuận cao trong ngắn hạn. Vậy nên, ngành ngân hàng muốn hỗ trợ tăng trưởng xanh thì cần phải có những sản phẩm khác so với các sản phẩm thông thường thì mới hỗ trợ được các doanh nghiệp tham gia tăng trưởng xanh. Trong khi đó, chuyên gia tài chính ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu lại cho rằng, cần phải có những hành động thiết thực hơn đối với tăng trưởng xanh như: Cho tái cấp vốn với lãi suất thấp, thực hiện các ưu đãi thuế, hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn ngân hàng…

Ông Nguyễn Việt Đức, Phó giám đốc khối Quản lý rủi ro ABBank chia sẻ, ngân hàng đặc biệt lưu tâm tới các nội dung phát triển toàn diện và bền vững. Về cơ bản, ABBank đã hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội. Hệ thống này được tích hợp vào quy trình kinh doanh, quy trình cấp tín dụng và áp dụng đồng bộ với các quy trình quản lý rủi ro hiện hành tại ngân hàng. ABBank cũng thực hiện phân công nhân sự chuyên trách để có những báo cáo kịp thời về tiến độ và hiệu quả của việc áp dụng chính sách vào thực tiễn nhằm đảm bảo các chủ trương quản trị rủi ro môi trường và xã hội được thực hiện đúng và đầy đủ. Để tạo sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng, ông Đức kiến nghị, các cơ quan quản lý tiếp tục ban hành những chính sách, cơ chế phù hợp để khuyến khích và thúc đẩy xu hướng tăng trưởng bền vững này.

Theo Trọng Triết – nif.mof.gov.vn

GCTF tham gia Vietfish 2015 – Hội chợ chuyên ngành thuỷ sản lớn nhất khu vực Đông Nam Á diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Từ ngày 24-26/08/2015, tại Trung tâm Hội chợ và Triển lãm Sài Gòn, 799 Nguyễn Văn Linh, quận 7, Tp. Hồ Chí Minh diễn ra Hội chợ chuyên ngành thuỷ sản lớn nhất khu vực Đông Nam Á với hơn 200 đơn vị triển lãm trong và ngoài nước.

Hàng năm Hội chợ thu hút khoảng 200 đơn vị triển lãm trong và ngoài nước, gần 30,000 lượt khách trong nước và quốc tế tham quan. Triển lãm nhằm góp phần giúp các đơn vị tham gia tìm được khách hàng mới đồng thời củng cố mối quan hệ với các đối tác cũ, đánh giá được xu hướng thị trường và thị hiếu người tiêu dùng, quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp.

IMGP1955

Hội chợ Vietfish 2015 

Trong khuôn khổ Vietfish 2015 còn diễn ra các Hội thảo: Chất lượng và thị phần cá tra tại EU; Tôm outlook; Kênh bán lẻ nội địa và nhu cầu hàng thuỷ sản VN chất lượng cao; Kỹ thuật bảo quản duy trì độ tươi nhằm nâng cao giá trị gia tăng hàng thuỷ sản; Cải thiện bao bì đóng gói sản phẩm thuỷ sản theo hướng bền vững; Cơ hội cho ngành thuỷ sản khi gia nhập FTAs; Vận động chính sách VASEP 2015 …

DSC_2992

Gian triển lãm của Quỹ Uỷ thác Tín dụng xanh (GCTF)

Quỹ Uỷ thác Tín dụng xanh (GCTF) cũng tham gia Hội chợ nhằm giới thiệu đến các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ, các nhà cung ứng thiết bị và giải pháp kỹ thuật công nghệ cũng như các đơn vị quan tâm một cơ chế hỗ trợ tài chính dành cho các dự án thay đổi công nghệ theo hướng tiết kiệm năng lượng và giảm tác động môi trường.

DSC_3024

Bà Nguyễn Lê Hằng – Điều phối viên Quỹ Uỷ thác Tín dụng xanh tiếp xúc với doanh nghiệp

Đại diện Quỹ GCTF đã tiếp xúc với một số nhà cung ứng thiết bị như Công ty TNHH lắp đặt điện lạnh kỹ thuật thương mại Việt, Công ty TNHH MTV Mayekawa Việt Nam, Công ty TNHH Thương mại Kỹ thuật Đông Dương Vi Na với mong muốn hợp tác làm việc để đem lại cơ hội chuyển đổi công nghệ khả thi về mặt tài chính cũng như kỹ thuật cho doanh nghiệp.

Tại Hội chợ triển lãm, các doanh nghiệp có cơ hội được tư vấn trực tiếp cũng như hướng dẫn đầy đủ về cách nộp hồ sơ đăng ký với Quỹ.

Mọi thông tin về Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh, xin liên hệ:

    Ms Nguyễn Lê Hằng 

  • Điều phối viên Quỹ GCTF
  • Email: [email protected]
  • Tel: 04 3868 4849 – số máy lẻ 14
  • ĐT: 0912 467 692

Theo Admin GCTF

Quỹ Uỷ thác Tín dụng xanh tham gia Hội thảo giới thiệu Dự án “Triển khai sáng kiến khu công nghiệp (KCN) sinh thái hướng tới mô hình khu công nghiệp bền vững tại Việt Nam”

Hội thảo giới thiệu Dự án “Triển khai sáng kiến khu công nghiệp (KCN) sinh thái hướng tới mô hình KCN bền vững tại Việt Nam” đã được tổ chức thành công tại 3 KCN trọng tâm thuộc tỉnh Ninh Bình, thành phố Cần Thơ và thành phố Đà Nẵng.

Là một trong những cơ chế tài chính cam kết tham gia Dự án, đại diện của GCTF đã tham dự Hội thảo nhằm giới thiệu cơ chế hỗ trợ tài chính của Quỹ trực tiếp tới các doanh nghiệp trong việc xúc tiến đầu tư đổi mới thiết bị/công nghệ theo hướng nâng cao hiệu quả sản xuất và đồng thời thân thiện với môi trường.

Trong khuôn khổ Dự án, các doanh nghiệp tại các KCN Khánh Phú – Ninh Bình, KCN Trà Nóc 1&2 – Cần Thơ và KCN Hoà Khánh – Đà Nẵng sẽ được đào tạo về nâng cao hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn (RECP), được hỗ trợ tư vấn và ưu đãi tài chính để đổi mới công nghệ nhằm tiết kiệm tài nguyên và giảm chất thải ra môi trường. Hỗ trợ của Dự án được thực hiện theo quy trình toàn diện gồm: đánh giá hiện trạng, xác định tiềm năng và phương án chuyển đổi, lập hồ sơ vay vốn để tiếp cận các nguồn hỗ trợ tài chính như Quỹ Ủy thác tín dụng xanh (bảo lãnh 50% và trả thưởng tới 25% vốn vay ) hoặc hỗ trợ vay với lãi suất ưu đãi từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Quỹ Bảo vệ Môi trường, Quỹ Đổi mới Công nghệ Quốc gia với các dự án thay đổi công nghệ khả thi.

Sau các phần tham luận giới thiệu các hoạt động và lợi ích đem lại từ Dự án, các cơ chế tài chính tham gia Dự án cũng như Đánh giá tiềm năng nâng cao hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn (RECP) tại các doanh nghiệp thuộc 3 KCN thí điểm của Dự án, phiên thảo luận đã nhận được nhiều câu hỏi từ phía doanh nghiệp liên quan tới các lợi ích cụ thể mà doanh nghiệp có thể nhận được khi tham gia dự án. Đại diện Quỹ Uỷ thác Tín dụng xanh – Bà Nguyễn Lê Hằng – đã giải đáp chi tiết các câu hỏi liên quan đến cơ hội nhận được hỗ trợ tài chính từ Quỹ cũng như cách thức tiếp cận với Quỹ.

IMG_2797

Bà Nguyễn Lê Hằng – đại diện cho Quỹ Uỷ thác Tín dụng xanh giải đáp câu hỏi liên quan đến Quỹ

Nhìn chung, các doanh nghiệp đều bày tỏ sự quan tâm đến Dự án và cam kết sẽ tham gia tích cực với mong muốn được tiếp cận và hỗ trợ về kỹ thuật cũng như tài chính ưu đãi để đầu tư ứng dụng công nghệ sạch và sử dụng tài nguyên hiệu quả, góp phần xây dựng mô hình KCN sinh thái bền vững.

Theo Admin GCTF

 

GCTF tham dự Hội thảo giới thiệu Dự án “Triển khai sáng kiến khu công nghiệp (KCN) sinh thái hướng đến mô hình KCN bền vững tại Việt Nam”

Vào các ngày 6/8, 12/8 và 14/8/2015, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổ chức Hội thảo giới thiệu Dự án “Triển khai sáng kiến khu công nghiệp (KCN) sinh thái hướng đến mô hình KCN bền vững tại Việt Nam”  lần lượt tại 3 tỉnh Ninh Bình, Cần Thơ và Đà Nẵng nhằm mục tiêu ra mắt dự án, cập nhật thông tin đến các cơ quan liên quan và doanh nghiệp tiềm năng tại 3 tỉnh trọng tâm, cũng như thông báo tiến độ thực hiện Dự án và các cơ chế hỗ trợ tài chính tham gia Dự án.

Là một trong những Quỹ cam kết tham gia Dự án, đại diện của GCTF sẽ tham dự Hội thảo nhằm giới thiệu cơ chế hỗ trợ tài chính của Quỹ  tới các doanh nghiệp trong việc xúc tiến đầu tư đổi mới thiết bị/công nghệ theo hướng nâng cao hiệu quả sản xuất và đồng thời thân thiện với môi trường.

Một số thông tin về Dự án

Dự án “Triển khai sáng kiến khu công nghiệp sinh thái hướng tới mô hình khu công nghiệp bền vững tại Việt Nam” do UNIDO tài trợ không hoàn lại  từ nguồn viện trợ của Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) và Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sỹ (SECO).

Mục tiêu của Dự án là tăng cường chuyển giao, ứng dụng và phổ biến công nghệ và phương thức sản xuất sạch hơn để giảm thiểu chất thải nguy hại, phát thải khí nhà kính cũng như các chất gây ô nhiễm nước và phương thức quản lý tốt hóa chất tại các khu công nghiệp (KCN) ở Việt Nam.

Dự án được thực hiện trong 36 tháng với tổng kinh phí thực hiện là hơn 53 triệu USD.

Admin gctf.vn

Doanh nghiệp chưa mặn mà với phát triển xanh

Phát triển xanh và bền vững được xem là giải pháp mang lại lợi ích kép cho doanh nghiệp (DN). Theo đó, DN vừa có thể tiết kiệm nguyên nhiên liệu sản xuất, vừa thực hiện trách nhiệm với môi trường sống của cộng đồng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều DN chưa thật sự quan tâm đến vấn đề này.

Thiếu chính sách hỗ trợ

Theo khảo sát của Trường Đại học Bách khoa TPHCM, có đến 70% DN không nghe đến chứng nhận nhãn xanh Việt Nam; hơn 50% DN không quan tâm đến biến đổi khí hậu; 60% DN không sẵn lòng đầu tư cho sản phẩm xanh; chỉ 50% DN cho biết lý do DN đầu tư sản xuất, kinh doanh sản phẩm xanh là để bảo vệ môi trường; 23,3% DN cho biết lý do DN đầu tư sản xuất, kinh doanh sản phẩm xanh là để tiết kiệm năng lượng. Trong khi đó, có 89% DN trả lời không nhận được sự hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước trong quá trình DN sản xuất, kinh doanh sản phẩm xanh; chỉ có 26% DN cho biết họ nhận được sự ủng hộ của các nhà sản xuất, phân phối đối với sản phẩm xanh.

Lý giải về vấn đề này, tiến sĩ Nguyễn Văn Khoa, Trưởng khoa Môi trường, Trường Đại học Bách khoa TPHCM, cho biết, vấn đề góp phần bảo vệ môi trường, giảm tiêu thụ nguyên nhiên vật liệu chưa được DN quan tâm, đặc biệt là khối DN thường. Khối DN xanh có sự chủ động và nhận thức được vai trò trách nhiệm của họ hơn là DN thường. Phần lớn DN quan tâm vấn đề kinh tế, chi phí đầu tư thấp, lợi nhuận cao rồi sau đó mới xét đến các vấn đề khác. Trong lúc DN vẫn đang phải đối mặt với việc giải quyết hàng tồn kho, tìm kiếm và mở rộng thị trường, bảo hộ thương hiệu, tiếp cận vốn vay… họ cũng phải tiếp tục lo thêm một khoản vốn đầu tư ban đầu khá cao khi thực hiện các dự án về sản xuất xanh. Thế nhưng, việc tiếp cận vốn vay vẫn còn nhiều khó khăn cho DN, và hiện chưa có nhiều ưu đãi cho DN vay vốn để phát triển xanh. Thế nên, nhiều DN chưa mặn mà với phát triển xanh cũng là điều dễ hiểu.

Đồng bộ giữa Nhà nước – Doanh nghiệp – Người tiêu dùng

Cũng theo tiến sĩ Nguyễn Văn Khoa, phát triển xanh sẽ là con đường duy nhất để các DN có thể tồn tại và phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt.

Sản xuất xanh giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển

Để một công ty phát triển xanh thì trong nội bộ công ty phải có sự đồng thuận từ lãnh đạo đến người lao động. Lãnh đạo công ty phải là người tiên phong trong định hướng phát triển xanh của công ty từ đó thay đổi cách suy nghĩ và hành động của từng cá nhân lao động trong toàn bộ công ty. Cùng với đó, công ty cũng phải chủ động đổi mới công nghệ, phát triển nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu hao ít năng lượng, thân thiện môi trường.

Đặc biệt, điều cần thiết làm ngay là Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách hiện hành sao cho đồng bộ nhất quán theo định hướng phát triển xanh, tạo điều kiện cho các DN, cộng đồng xã hội thực hiện theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Mặt khác, Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về tiêu dùng xanh sẽ tạo ra động lực khuyến khích và nguồn cung cho nhu cầu “tiêu dùng xanh trên thị trường”. Đồng thời cần đưa ra các chính sách khuyến khích các nhà sản xuất các sản phẩm, dịch vụ xanh. Phát triển những ngành nghề, lĩnh vực có áp dụng công nghệ sạch, sản xuất sạch hơn, hướng đến các sản phẩm cho tiêu dùng xanh. Đẩy mạnh xanh hóa sản xuất, ưu tiên các chính sách và kế hoạch hành động phát triển năng lượng tái tạo, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, phát triển công nghệ xanh, cơ chế phát triển sạch.

Đồng thời người tiêu dùng cũng phải thể hiện được trách nhiệm tiêu dùng của mình, người tiêu dùng phải là những người tiêu dùng thông thái, thông minh hướng tới việc mua sắm xanh. Mua sắm xanh sẽ mang lại những lợi ích như nâng cao độ an toàn và sức khỏe cho người dân và cộng đồng; phát triển các sản phẩm mới, thân thiện với môi trường hơn; nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường; tiết kiệm chi phí mua sắm và sử dụng.

Theo các chuyên gia, xu hướng phát triển xanh đang diễn ra mạnh mẽ tại nhiều nước trên thế giới. Việc DN hòa nhập xu hướng này sẽ giúp tăng uy tín thương hiệu, đồng thời xóa bỏ rào cản kỹ thuật môi trường khi bước chân vào thị trường thế giới. Không chỉ vậy, DN đổi mới xanh còn có cơ hội thu hút đầu tư của các tổ chức phi chính phủ, các ngân hàng và các tổ chức tài chính…

Để thực hiện mục tiêu phát triển xanh, không nhất thiết DN phải đầu tư trang thiết bị hiện đại để giảm thiểu khí thải, tạo ra sản phẩm thân thiện với môi trường. Chỉ bằng những hành động đơn giản: chấp hành tốt quy định bảo vệ môi trường, cải tiến quy trình sản xuất để giảm nguyên nhiên liệu, điện. Và quan trọng nhất là ưu tiên tiêu dùng những sản phẩm, nguyên vật liệu thân thiện với môi trường là đã giúp thực hiện được mục tiêu này. Bên cạnh đó, để tiến tới xây dựng một nền kinh tế xanh, phát triển bền vững, đòi hỏi mỗi chúng ta phải có những thay đổi trong nhận thức và hành động về bảo vệ môi trường. Cùng với toàn xã hội, nhận thức và sự đồng hành của các DN trong các hoạt động về bảo vệ môi trường là hết sức cần thiết.

Theo Sài Gòn Giải Phóng