Anh nông dân kiêm nhà công nghệ xanh

Một người nông dân Trung Quốc đã cống hiến 30 năm cho nghiên cứu khoa học. Ông tin rằng trong tương lai, năng lượng xanh sẽ ứng dụng rộng rãi.

Ding Jiangshan bên cạnh chiếc máy quét tự động chạy bằng năng lượng mặt trời. Ảnh: ChinaDaily.

Ông Ding Jiangshan, 56 tuổi, mới tốt nghiệp trung học phổ thông, nhưng ông được nhiều người biết đến “như một nhà phát minh sáng chế” của thị trấn Hongguang, quận Helan, khu tự trị Ningxia Hui, tây bắc Trung quốc.

Năm 1990, sau 8 năm thử nghiệm, ông Ding được nhà nước cấp mộtbằng sáng chế với sản phẩm kết hợp máy gặt đập liên hợp gắn trên máy kéo. Thành tích này giúp ông có thêm động lực phát minh ra thiết bị khác như khác máy quét tự động bằng năng lượng mặt trời,xe chạy bằng điện và xe đạp thể dục có thể tạo ra điện.
Nguồn thu nhập của gia đình ông Ding chủ yếu từ nghề nông nghiệp và cửa hàng tạp hóa nhỏ. Ông từng từ bỏ niềm đam mê khoa học trong thời gian dài do không có kinh phí và phản đối của gia đình. Tuy nhiên, những năm gần đây, chính phủ nước này đã có nhiều chính sách thúc đẩy nguồn năng lượng mới và công nghệ xanh, điều đó đã nhen nhóm lại niềm đam mê về phát minh khoa học trong ông.
Ông đã thực hiện ước mơ của mình bằng việc vay 500.000 nhân dân tệ (khoảng 78.500 USD) để mở công ty theo hướng phát triển các phương tiện sạch cho ngành công nghiệp du lịch.
“Công nghệ xanh thân thiện với môi trường là xu hướng lớn. Ước mơ lớn nhất của tôi là áp dụng phát minh của mình vào cuộc sống hàng ngày cho mọi người dân”, ông Ding Jiangshan nói.

 tinmoi.vn

Sản xuất sạch hơn tại các làng nghề truyền thống

Để giảm thiểu ô nhiễm và phát triển bền vững tại các làng nghề truyền thống, áp dụng sản xuất sạch hơn được xem là một trong những giải pháp mang tính đột phá.

Không thể phủ nhận được những hiệu quả của hoạt động sản xuất công nghiệp nông thôn khi tạo ra một lượng việc làm lớn cho lao động nông thôn, đóng góp cho ngân sách Nhà nước cũng như thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, tuy nhiên, vấn đề tồn tại lớn nhất của hình thức sản xuất này chính là tình trạng ô nhiễm môi trường. Theo thống kê của Bộ TN&MT, hiện nay trên cả nước có khoảng 4.575 làng nghề, trong đó có hơn 1.300 làng nghề truyền thống, giải quyết việc làm cho 11 triệu lao động nông thôn. Song thực tế khá phổ biến tình trạng làng nghề vi phạm pháp luật về môi trường.

Đơn cử như Hà Nội là nơi tập trung đông đảo các làng nghề truyền thống. Làng nghề thủ công ở Hà Nội có rất nhiều nguồn gốc khác nhau, những làng nghề có sẵn chiếm phần nhỏ trong tổng số làng nghề đa phần đều được di dời từ nơi khác về… Mệnh danh là “đất trăm nghề”, tình trạng ô nhiễm môi trường ở Hà Nội nhiều năm qua đã trở thành một trong những vấn đề nổi cộm. Với 272 làng nghề, không khí tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm thường bị ô nhiễm do đốt nhiên liệu, do sự phân hủy yếm khí các chất hữu cơ có trong nước thải, chất thải rắn như CO2, NH3, CH4. Không khí tại các làng nghề mây tre đan, làm nón, tăm hương… bị ô nhiễm do khâu sấy chống mốc dùng diêm sinh gây phát sinh một lượng lớn khí SO2. Không khí tại các làng nghề dệt nhuộm bị ô nhiễm do bụi bông, bụi than, hơi hóa chất, xút thải…

Không những gây ảnh hưởng đến môi trường, ô nhiễm làng nghề còn khiến cho tỷ lệ mắc bệnh tại các làng nghề có xu hướng tăng cao, đặc biệt là các nhóm người trong độ tuổi lao động.

Thống kê của Sở Công Thương Hà Nội, hiện 70% số thiết bị được sử dụng tại các làng nghề là máy móc, trang thiết bị đơn giản. Số máy móc hiện đại chỉ tập trung tại một số làng với những ngành nghề như dệt, may, gốm sứ. Bên cạnh đó, hệ thống xử lý nước thải tại các khu vực làng nghề nhìn chung vẫn chưa được quan tâm đầu tư xây dựng. Do vậy, ô nhiễm môi trường làng nghề đang trở thành tình trạng chung, là vấn đề nổi cộm của hầu hết các làng nghề ngoại thành Hà Nội và ngày càng có nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến môi trường sống cũng như phát triển sản xuất.

Theo Trung tâm Tiết kiệm năng lượng Hà Nội, ô nhiễm môi trường tại các làng nghề hoàn toàn có thể khắc phục được nếu áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn. Ứng dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn nhằm giảm ô nhiễm và tăng hiệu quả kinh tế tại các khu vực làng nghề là một trong những trọng tâm của hoạt động sản xuất sạch hơn đang được triển khai trên địa bàn.

Điển hình như làng gốm Bát Tràng, trước đây, mỗi ngày, làng nghề tiêu thụ khoảng 800 tấn than và thải vào môi trường các loại khí độc hại: CO, SO2, H2S, bụi silic, chất thải rắn… Để giải quyết bài toán phát triển bền vững, các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất làng nghề Bát Tràng đã tích cực tham gia chuyển đổi công nghệ sản xuất. 6 năm trước đây, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Quỹ Môi trường toàn cầu của UNDP triển khai dự án “Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” tại làng nghề. Dự án đã giúp các doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ nung gốm từ các lò than, lò gas truyền thống sang lò gas hiện đại.

Đến thời điểm này, Bát Tràng đã có trên 400 hộ sử dụng lò nung gốm bằng khí gas hóa lỏng, góp phần làm giảm phần lớn lượng phế phẩm so với lò than và hạn chế ô nhiễm ra môi trường xung quanh. Thành công của dự án này ở làng nghề Bát Tràng đã có sức lan tỏa rất lớn. Các doanh nghiệp tham gia dự án thành công với việc chuyển đổi sang mô hình tiết kiệm năng lượng đã khích lệ doanh nghiệp và các hộ sản xuất khác trong làng nghề học tập và làm theo. Đến nay, cả làng nghề Bát Tràng đã có 131 doanh nghiệp và hộ sản xuất áp dụng công nghệ lò gas cải tiến. Đặc biệt, nhờ có hơn 90% các hộ sản xuất gốm sứ chuyển sang sử dụng công nghệ lò gas cải tiến đã giúp giảm tiêu hao năng lượng, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường của công nghệ sản xuất trước kia, giải quyết việc làm cho khoảng 4.000 lao động. Doanh thu của xã Bát Tràng hiện nay đạt 400 tỷ đồng/năm, bình quân 22 triệu đồng/người, lợi nhuận tăng gấp 2-3 lần so với công nghệ cũ.

Một số doanh nghiệp mây tre đan ở làng nghề Phú Vinh (xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ) đã áp dụng sản xuất sạch hơn, đem lại nhiều lợi ích từ kinh tế đến môi trường. Khi chưa áp dụng sản xuất sạch hơn, doanh nghiệp bị hao hụt tới 10% mây tươi ở khâu luộc, tẩm, thu mua. Hóa chất tổn thất nhiều do hệ thống luộc và tẩm mây làm bằng xi măng không có gia nhiệt; cũng ở khâu này, thêm 10% nguyên liệu tiếp tục bị hao hụt. Khi thực hiện sản xuất sạch hơn, kết quả mang lại rất khả quan, lượng nguyên liệu hao hụt giảm mạnh mà doanh nghiệp không mất nhiều chi phí, đặc biệt, giảm phát thải ra môi trường.

 

Tiếp tục hành trình 1 triệu cây xanh tại trường học

Khoảng 150 cây xanh được các đại biểu, thầy cô và học sinh trường trung học phổ thông Chuyên Hà Nội Amsterdam, thành phố Hà Nội, trồng tại khuôn viên của trường vào ngày 22/10.

​Phát biểu tại buổi lế phát động trồng cây tại trường trung học phổ thông Chuyên Amstesdam, bà Lê Thị Oanh, phó hiệu trưởng cho biết, Chương trình trồng cây xanh tại trường nhằm mục đích gia tăng số lượng cây xanh, tạo không gian xanh xung quanh sân trường, đồng thời tạo cơ hội thiết thực cho các em học sinh đóng góp sức mình trong việc trồng và bảo vệ cây xanh, từ đó nâng cao ý thức về môi trường, bảo vệ môi trường cho các em học sinh.

Ngay sau khi trồng tại trường trung học phổ thông chuyên Hà Nội Amstesdam, Quỹ 1 triệu cây xanh cho Việt Nam sẽ tiếp tục trồng thêm 110 cây tại trường Phổ thông trung học Lương Thế Vinh, Hà Nội. Sau đó chương trình tiếp tục hành trình trồng cây tại thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng và nhiều thành phố khác trên toàn quốc.

Chương trình Quỹ 1 triệu cây xanh cho Việt Nam do Tổng cục Môi trường (VEA) thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường và nhãn hàng nước giải khát Vfresh thuộc Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam Vinamilk phát động.

Trước đó, chương trình cũng đã triển khai trồng cây tại xa lộ Hà Nội ở Thành phố Hồ Chí Minh trồng rừng ngập mặn ở thành phố Hạ Long; trồng cây ở trường học Lương Thế Vinh, thành phố Hà Nội; trồng cây tại khu vực Âu Thuyền và cảng cá Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng; trồng tại huyện Tân Phước và khôn viên Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác của tỉnh Tiền Giang.

Theo ông Trần Phong, Giám đốc Trung tâm Đào tạo và Truyền thông môi trường, Tổng cục Môi trường, Chương trình Quỹ 1 triệu cây xanh cho Việt Nam là hoạt động nhằm hiện thực hóa chủ trương xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là việc đẩy mạnh trồng, quản lý và bảo vệ cây xanh để cải thiện chất lượng môi trường không khí tại các đô thị, vừa thực hiện chủ trương lớn của Đảng và nhà nước, vừa hỗ trợ các địa phương đẩy mạnh công tác trồng cây xanh.

Trong năm 2012, công ty Vinamilk đóng góp cho Quỹ 1 triệu cây xanh cho Việt Nam bằng việc trích 50 đồng trên mỗi sản phẩm Nước giải khát Vfresh của Vinamilk bán ra với tổng số tiền cam kết tối thiểu trích là 3 tỷ đồng./

 Theo vea.gov.vn

Centec Việt Nam: Cầu nối “xanh” cho sự hợp tác bền vững

Trong thời gian qua, trước những thách thức từ các vấn đê môi trường, Việt Nam cũng như các nước trên thế giới đang nỗ lực tìm kiếm những giải pháp để phát triển bền vững. Chia sẻ với Việt Nam, hơn 40 năm qua, Thụy Điển đã hỗ trợ rất nhiều cho công tác BVMT và phát triển bền vững đất nước. Hiện nay, mối quan hệ giữa 2 nước đã chuyển sang giai đoạn mới: Hợp tác bình đẳng dựa trên lợi ích song phương. Trung tâm Hợp tác Công nghệ Môi trường Việt Nam – Thụy Điên (Centec Việt Nam) ra đời, là cầu nối thúc đẩy mối quan hệ hợp tác 2 quốc gia về môi trường, năng lượng và biến đổi khí hậu.

 Hertzman: Cen-tec là Dự án của Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam nhằm tiếp tục duy trì, tăng cường quan hệ hợp tác giữa 2 nước trong lĩnh vực môi trường, năng lượng và biến đổi khí hậu. Từ năm 2007, Chính phủ Thụy Điển đã thông báo, các gói hỗ trợ song phương cho Việt Nam sẽ kết thúc vào tháng 12/2013. Trước khi nguồn viện trợ kết thúc, từ 2009 – 2013 là giai đoạn chuyển tiếp để đưa mối quan hệ Việt Nam và Thụy Điển từ nhà tài trợ – nhận tài trợ, sang một mối quan hệ bình đẳng hơn. Năm 2011, để hỗ trợ Thụy Điển duy trì mối quan hệ họp tác với Việt Nam trong công tác BVMT, Tổ chức Hợp tác Phát triển Quốc tế Thụy Điển (Sida) đã quyết định thành lập Centec.

Kể từ khi thành lập, với vai trò là cầu nối, Centec đã tích cực giới thiệu những công nghệ và giải pháp quản lý môi trường của 2 nước; Mở ra những cơ hội hợp tác có lợi cho cả 2 bên đối tác; Chia sẻ các giải pháp mang tính hệ thống và tổng thể, hướng đến mục tiêu quản lý môi trường bền vững. Centec đã hỗ trợ đắc lực cho quá trình xây dựng mối quan hệ bền vững và lâu dài giữa các đối tác Việt Nam với các đối tác Thụy Điển, đồng thời, giúp quan hệ đó tiếp tục phát triển sau năm 2013 khi Dự án kết thúc.

PV: Xin ông cho biết, những hoạt động mà Centec đã triển khai trong thời gian qua và kết quả của những hoạt động này?

Ông Tomas Hertzman: Cen-tec đã nghiên cứu, lập kế hoạch, triển khai dự án, tổ chức hội thảo, thiết kế các chương trình hợp tác song phương, hỗ trợ quá trình chuyển giao công nghệ sạch, thân thiện với môi trường. Các hoạt động của Centec giúp tạo lập và duy trì mạng lưới hợp tác, tập trung vào 3 nhóm: Khối cơ quan nhà nước, viện nghiên cứu/trường đại học và doanh nghiệp, trong đó, doanh nghiệp là đối tượng chủ chốt.

Năm 2011, Centec cùng Đại sứ quán Thụy Điển tổ chức thành công Hội thảo “Hành Trình Xanh 2011” tại 5 thành phố: Đà Nang, Hội An, Quy Nhơn, Vũng Tàu và TP. Hồ Chí Minh, qua đó, khẳng định vai trò cầu nối quan trọng, thúc đẩy quan hệ họp tác giữa 2 nước về môi trường. Đồng thời, mở ra cơ hội để các bên trao đổi kiến thức, kinh nghiệm, xây dựng dự án và tìm nguồn tài chính hỗ trợ thực hiện dự án. Những giải pháp về xử lý nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt bằng công nghệ vi sinh, tận dụng chất thải, rác thải làm nguồn năng lượng sinh học… đã được đưa ra tại các buổi Hội Thảo. Ngoài ra, Centec còn hợp tác với một số cơ quan truyền thông đại chúng để giới thiệu các công nghệ và giải pháp xanh, sạch của Thụy Điển đến với công chúng. Bên cạnh đó, Centec cũng liên kết với Hội Quy hoạch Phát triển Đô thị Việt Nam để cung cấp thông tin cho các nhà quy hoạch, kiến trúc sư về mô hình thành phố bền vững Symbio City của Thụy Điển. Hơn 1 năm qua, Centec đã triển khai được một số dự án xử lý chất thải, nước thải đô thị, xử lý đất nhiễm dioxin. Đặc biệt, Centec đã kết nối để thực hiện thành công 5 dự án: Dự án giáo dục về phát triển bền vững, môi trường và biến đổi khí hậu giữa Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Uppsala -Thụy Điển; Diễn đàn hợp tác kinh doanh công nghệ sạch giữa Hiệp hội Doanh nghiệp trẻ Hà Nội và Mạng lưới Kinh doanh bền vững Thụy Điển; Dự án hợp tác xử lý dioxin tại Việt Nam giữa Công ty Cleantech, Công ty VITTEP (Việt Nam) với Công ty DGE, Đại học Umea (Thụy Điển); Dự án kết nối về môi trường và phát triển bền vững giữa TP. Đà Nẵng và TP. Boras, TP. Linkping. Thông qua những dự án này, đối tác của 2 nước đều nhìn thấy những triển vọng tốt đẹp, được tư vấn những giải pháp, phương thức kinh doanh hiệu quả, để góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa 2 nước trong lĩnh vực môi trường.

 PV: Trong quá trình hoạt động, Centec có những thuận lợi và khó khăn gì, thưa ông? Xin ông cho biết, định hướng của Centec trong thời gian tới?

Ông Tomas Hertzman: Để triển khai các hoạt động đạt hiệu quả, Centec có một số thuận lợi. Cụ thể, về mặt tài chính, Centec và các bên đối tác được hỗ trợ một khoản kinh phí cho các dự án thông qua một số cơ chế hỗ trợ của phía Thụy Điển: Chương trình hợp tác đối tác Việt Nam – Thụy Điển (PDC), với 3 triệu cua-ron (SEK) Thụy Điển; Chương trình dự án thử nghiệm về môi trường, với gói hỗ trợ gần 2 triệu SEK; Chương trình kinh doanh phục vụ cho phát triển (B4D), với 1,8 triệu SEK. Cùng với những nguồn hỗ trợ khác từ Trung tâm hợp tác quốc tế phát triển địa phương (ICLD) và các khoản vay phục vụ cho hoạt động liên doanh, liên kết sử dụng công nghệ của Thụy Điển. Đặc biệt, các hoạt động của Centec đều nhận được sự ủng hộ của Chính phủ 2 nước, sự tham gia tích cực của các bên, góp phần mang đến sự thành công cho các dự án. Đó là nguồn động lực lớn, thúc đẩy các hoạt động họp tác ngày càng phát triển. Tuy nhiên, Centec cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận vói doanh nghiệp Việt Nam, thuyết phục họ sử dụng công nghệ của Thụy Điển. Còn với các công ty của Thụy Điển, do chưa nhìn thấy thị trường tiềm năng của Việt Nam và không phải dễ dàng để thuyết phục họ tin tưởng vào điều đó.

Hiện nay, mục tiêu của Centec là tập trung vào lĩnh vực phát triển năng lượng tái tạo. Centec đang tìm kiếm đối tác Việt Nam để xúc tiến đầu tư với đối tác Thụy Điển trong lĩnh vực biogas, năng lượng mặt trời, xử lý nước ngầm, chất thải điện tử, khử nước bùn thải. Đồng thời, Centec cũng đang tìm kiếm những đối tác phía Thụy Điển để đầu tư vào Việt Nam trong lĩnh vực viên nén năng lượng, xử lý nước thải, chất thải nguy hại và quy hoạch đô thị. Vào tháng 8/2012, Centec sẽ triển khai Chương trình Hành trình xanh 2012 tại Thụy Điển để giới thiệu về thị trường Việt Nam và nhu cầu hợp tác của Việt Nam về môi trường và năng lượng. Sau đó, Centec sẽ tổ chức Hội thảo quốc gia về khí sinh học tại 2 thành phố: Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, nhằm xây dựng quan hệ hợp tác giữa 2 nước về ứng dụng và phát triển khí sinh học trong đời sống. Chúng tôi hy vọng rằng, các chương trình, hoạt động sắp tới của Centec sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn nữa, góp phần củng cố mối quan hệ bền vững giữa 2 quốc gia vì một màu xanh cho những thế hệ mai sau.

PV: Xin cảm ôn ông!

 Theo vea.gov.vn

Khai thác bền vững đồng cỏ bàng lớn nhất ĐBSCL

Sau 8 năm triển khai thực hiện, dự án “Khai thác bền vững đồng cỏ bàng kết hợp bảo tồn nghề thủ công địa phương” tại xã Phú Mỹ, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang ngày càng phát huy hiệu quả tích cực về bảo vệ môi trường sinh thái và cải thiện, nâng cao đời sống đồng bào dân tộc Khmer trong vùng.

[ Kiên Giang: Sếu đầu đỏ về lại đồng cỏ Phú Mỹ ]

Dự án có tổng vốn đầu tư 500.000 USD do Hội Sếu quốc tế tài trợ và 300 triệu đồng đối ứng của tỉnh Kiên Giang.

Hiệu quả dự án là bảo tồn đồng cỏ bàng Phú Mỹ tự nhiên lớn nhất còn lại của vùng Đồng bằng sông Cửu Long và sếu đầu đỏ (sếu cổ trụi), một loài chim quý hiếm trong sách Đỏ Việt Nam và thế giới, vì số lượng hiện còn quá ít, khoảng 800-1.100 con.
Ông Hà Trí Cao, Điều phối viên dự án này cho biết: “Dự án đã bảo vệ được 1.200ha đồng cỏ, rừng tràm tự nhiên, phục hồi 60ha và trồng mới 20ha cỏ bàng. Môi trường sinh thái ổn định và bền vững, trở thành nơi cư ngụ quan trọng cho sếu đầu đỏ bay về, từ khoảng 6 con vào năm 2003, đến nay đàn sếu có hơn 237 con, được các tổ chức môi trường thế giới đặc biệt quan tâm. Bên cạnh đó, đồng cỏ bàng không những là nguồn nguyên liệu để duy trì, phát triển nghề đan đát truyền thống của địa phương mà còn giúp người dân ở đây cải thiện, nâng cao đời sống, nhất là đồng bào dân tộc Khmer trong vùng dự án chiếm hơn 95%.”
Theo đó, làng nghề đan đát truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer Phú Mỹ đã tạo hơn 500 mẫu sản phẩm đẹp, chất lượng giới thiệu cho khách hàng, trong đó có nhiều mẫu mã làm theo yêu cầu của các công ty xuất khẩu tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Sản phẩm đan đát từ cỏ bàng như các loại giỏ, khay, thùng, chiếu, đệm, nón, có mặt ở thị trường nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới là Nhật, Hong Kong, Mỹ, Canada, Italy, Australia, Thụy Sĩ, Chile, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan.
Từ hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất khẩu sản phẩm này đã tạo việc làm ổn định cho hơn 1.000 lao động địa phương tham gia hoạt động của dự án và nhiều lao động phụ khác. Dự án đã đào tạo trên 500 công nhân thành thạo kỹ thuật đan giỏ xách, nón, may các sản phẩm thủ công mỹ nghệ cao cấp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, với mức thu nhập 1,8-4 triệu đồng/người/tháng.
Khoảng 300 hộ dân, với gần 1.000 lao động trong vùng dự án nhờ bán nguyên liệu cỏ bàng, cung cấp các sản phẩm dệt tại nhà như: đệm, chiếu… thu nhập 1,5-2 triệu đồng/người/tháng.
Hiệu quả có ý nghĩa lớn nhất của dự án Khai thác bền vững đồng cỏ bàng kết hợp bảo tồn nghề thủ công địa phương tại xã Phú Mỹ là đồng bào dân tộc Khmer ở đây đã được tổ chức thành tổ, nhóm có tay nghề đan đát cao, ý thức kỷ luật tốt.
Thông qua dự án, đồng bào dân tộc Khmer tiếp thu tốt các chủ trương, chính sách và thấy rõ sự quan tâm, chăm lo của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc.
Ngoài ra, hiệu quả của dự án là kinh phí đầu tư không nhiều, nhưng cùng lúc kết hợp được việc phát triển kinh tế của người dân với bảo tồn thiên nhiên; gìn giữ bản sắc văn hóa độc đáo của người dân địa phương, đặc biệt là đồng bào dân tộc Khmer, đảm bảo phát triển kinh tế-xã hội vùng biên giới.
Hiện nay, nhiều đoàn khách, các nhà khoa học, doanh nghiệp quan tâm đến môi trường và sinh viên của nhiều trường đại học trên thế giới tìm đến Phú Mỹ để xem sếu đầu đỏ và tham quan làng nghề đan đát truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer. Đây là cơ sở, điều kiện thuận lợi cho các chương trình phát triển du lịch và tiếp cận nhà đầu tư của tỉnh Kiên Giang và Đồng bằng sông Cửu Long./.

Theo baomoi.com

Đưa công nghệ xanh vào sản xuất: Cuộc chiến dài hơi

KTĐT – Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đặc biệt là bảo vệ môi trường giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, thâm nhập vào các thị trường quốc tế và đảm bảo sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, việc thực hiện công tác bảo vệ môi trường tại các doanh nghiệp đang là vấn đề nan giải, gặp nhiều khó khăn.

Nhiều doanh nghiệpvi phạm

Trong thời gian qua, nhiều vụ vi phạm môi trường xảy ra nổi cộm. Lãnh đạo Sở TN&MT Hà Nội cho biết, trong 6 tháng đầu năm 2011, các đoàn thanh tra của Sở kiểm tra, phát hiện 50 cơ sở vi phạm, phạt tiền trên 1 tỉ đồng. Mới đây, Công ty TNHH Hệ thống Công nghiệp LS-VINA (trụ sở tại thị trấn Đông Anh) phải chịu mức phạt 100 triệu đồng vì vi phạm về bảo vệ môi trường. Doanh nghiệp này có hành vi không phân loại chất thải nguy hại; không bố trí nơi an toàn để lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại; không đóng gói, bảo quản chất thải nguy hại theo chủng loại trong các bồn, thùng chứa, bao bì chuyên dụng… Trước đó, tại Cụm công nghiệp tập trung vừa và nhỏ huyện Từ Liêm, Công ty cổ phần sản xuất nhãn mác và phụ liệu dệt may Thanh Bình và Công ty TNHH Huy Thành, cũng bị xử phạt vì vi phạm về bảo vệ môi trường.

Ở các địa phương trên cả nước, hàng loạt doanh nghiệp vi phạm về bảo vệ môi trường bị phát giác. Mới đây, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường, Bộ Công an tại TP. HCM phát hiện, xử lý 7 doanh nghiệp tư nhân, công ty vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Tại Đà Nẵng, vẫn còn 3/6 khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải, 14% doanh nghiệp chưa xây dựng báo cáo đánh giá tác động môi trường. Qua kiểm tra ngẫu nhiên ở 90 doanh nghiệp, phát hiện 100% doanh nghiệp vi phạm Luật Bảo vệ Môi trường, trong đó có 90% doanh nghiệp đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải, nhưng vận hành không thường xuyên hoặc vận hành không đúng quy trình. Doanh nghiệp vi phạm về bảo vệ môi trường tai tiếng nhất ở Việt Nam có thể phải kể đến Công ty Vedan (Đồng Nai). Ngay sau khi phát hiện, Vedan đã bị kiện, bị tẩy chay và cuối cùng phải chấp nhận bồi thường 220 tỉ đồng cho hành vi của mình.

Giải pháp nào?

Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nhiều doanh nghiệp đã và đang từng bước chủ động đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thông qua các giải pháp giảm phát thải ngay từ đầu nguồn thay vì xử lý cuối nguồn hoặc xả thẳng ra môi trường. Với lợi thế về vốn, khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý, phần lớn các doanh nghiệp FDI đều chủ động áp dụng các biện pháp xử lý chất thải trước khi thải ra môi trường. Tại các doanh nghiệp trong nước, bên cạnh nhiều tổng công ty lớn của nhà nước chủ động áp dụng các giải pháp xử lý chất thải và đầu tư đổi mới công nghệ trong sản xuất, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp làng nghề cũng đã nâng cao nhận thức trong vấn đề giảm thiểu ô nhiễm môi trường thông qua thay đổi phương thức sản xuất và đổi mới công nghệ. Điển hình là làng nghề gốm sứ Bát Tràng, đa số các hộ dân chủ động chuyển đổi từ lò nung gốm đốt than sang đốt gas, nhờ vậy mỗi năm tiết kiệm được khoảng 3.000 tấn dầu quy đổi và giảm phát thải trên 12.000 tấn khí CO2.

Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đưa ra một số đề xuất giúp các doanh nghiệp nâng cao chất lượng bảo vệ môi trường. Trước hết, Nhà nước cần cho áp dụng các loại phí và lệ phí theo pháp lệnh, như phí nước thải, rác thải, phí gây ô nhiễm không khí, phí gây tiếng ồn… Số tiền thu được cần qui định là nguồn thu của quĩ môi trường để hỗ trợ các hoạt động cải thiện môi trường. Thứ hai, Nhà nước cần áp dụng chính sách miễn giảm thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp trong một số năm nhất định cho các dự án đầu tư cải thiện môi trường sản xuất ở doanh nghiệp. Thứ ba, cần có cơ chế hỗ trợ vốn thích hợp cho các doanh nghiệp thông qua quĩ môi trường. Do đó, đề nghị sớm thành lập quĩ môi trường quốc gia và hoàn thiện mô hình hoạt động của các quỹ môi trường địa phương. Ngoài ra, có thể đưa ra điều kiện ràng buộc miễn giảm thuế gắn với việc hợp lý hóa được sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến hay công nghệ sạch hơn ngay tại doanh nghiệp.

baomoi.com

Tìm giải pháp môi trường ở làng nghề Thanh Thùy, Thanh Oai, Hà Nội

IRV – Thôn Rùa Hạ, xã Thanh Thùy, huyện Thanh Oai, Hà Nội giờ đây đã có nhiều ngôi nhà khang trang mọc lên nhờ vào nghề cơ khí. Tuy nhiên, cái gì cũng có mặt trái của nó, đằng sau những cơ ngơi khang trang đó, là tiếng ồn, nước thải, bụi từ các cỗ máy phay, dập, cắt, đột…

Rác thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp… thải thẳng ra mương nước, đồng ruộng khiến môi trường ngày càng thêm “cằn cỗi”.

Sống chung với ô nhiễm, tiếng ồn
Xã Thanh Thùy thuộc huyện Hà Tây cũ, nay là Hà Nội, xã có 6 thôn, thì có tới 5 thôn làm nghề cơ khí, một thôn làm nghề điêu khắc. Năm 2010, xã đạt doanh thu 80,486 tỷ đồng, trong đó 83,5 % là từ tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại. Từ những năm 2000 xã có chủ trương thành lập điểm công nghiệp và đến năm 2006- 2007 lô 1 của điểm công nghiệp đã được cho các hộ làm nghề trong làng thuê để sản xuất.

Đến xã Thanh Thùy vào bất kỳ thời điểm nào trong năm cũng rất dễ nhận làng làm nghề cơ khí bởi những âm thanh chát chúa, đinh tai nhức óc phát ra từ các máy phay, dập, cắt kim loại không lúc nào ngừng. Con đường làng nhỏ bé mà không khí lúc nào cũng như một đại công trường lớn. Anh Chính trưởng thôn Rùa Hạ cho biết, người dân ở đây đã sống chung với bụi, tiếng ồn và nước thải từ các cơ sở mạ kim loại từ rất lâu rồi, đã có nhiều biện pháp giảm thiểu ô nhiễm từ cấp trên đưa xuống nhưng kết quả chưa được là bao, khổ nhất là các cháu nhỏ, tiếng ồn phát ra suốt ngày đêm nên không sao mà học được.

Các xưởng mạ trong làng chủ yếu là quy mô nhỏ lẻ nên sản phẩm và nguyên vật liệu bày bừa bãi ra cả lòng lề đường.

Ông Lê Văn Cảnh, Chủ tịch xã Thanh Thùy cho biết, do làng nghề phát triển tự phát nên các xưởng sản xuất nằm ở ngay trong chính hộ gia đình đó. Vì thế nước thải, đặc biệt là nước thải từ các hộ làm mạ giữa làng thải thẳng ra mương nước, cống tiêu, chảy ra ruộng lúa khiến những ruộng lúa đang xanh tốt bỗng nhiên lùn lại, hạt không chắc được và chết dần.

Còn theo anh Chính trưởng thôn Rùa Hạ thì những nơi đất canh tác bị nhiễm nguồn nước thải từ các xưởng mạ còn bị chai và phải bỏ cho cỏ mọc vì không trồng được loại cây gì. Phần ruộng trước cổng vào thôn Rùa Hạ và khu vực giữa làng, nơi tập trung các xưởng mạ. Không những thế rác thải công nghiệp thải ra từ các nhà xưởng và rác thải sinh hoạt của hầu hết các thôn trong xã chưa có chỗ đổ tập trung, vứt tuỳ tiện ra cống, mương máng, đường đi… gây mất vệ sinh và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Nguyên nhân gây ô nhiễm
Khi chúng tôi hỏi về giải pháp của xã và làng nghề về vấn đề xử lý ô nhiễm môi trường, Ông Lê Văn Cảnh Chủ tịch xã cũng thừa nhận, hiện giờ các xưởng sản xuất nhỏ lẻ trong xã vẫn thải trực tiếp nước thải và rác thải công nghiệp ra ao, hồ, ruộng đồng xung quanh làng, xã. Thậm chí, tại điểm công nghiệp của xã vẫn chưa có khu xử lý chất thải riêng đảm bảo tiêu chuẩn… rác thải của các hộ sản xuất tại điểm công nghiệp, vẫn thải trực tiếp ra môi trường xung quanh.

Ông Cảnh cũng cho biết thêm, cả xã có khoảng 1400 hộ sản xuất cơ khí, tiểu thủ công nghiệp thì tới nay mới có khoảng 40 hộ sản xuất lớn, có quy mô chuyển vào hoạt động tại điểm công nghiệp, số còn lại vẫn sản xuất ngay trong xã gây bức xúc cho người dân.

Thêm nữa, máy móc cũ kỹ, tiếng ồn nhiều cũng là một nguyên nhân khiến môi trường càng thêm ô nhiễm. Trong khi tai người bình thường chỉ nghe được tiếng ồn, độ ré của âm thanh ở mức từ 0- 130 db trong khoảng 10 phút, thì môi trường trong làng nghề lúc nào cũng trên con số đó gấp nhiều lần và diễn ra liên tục…

Máy móc cũ kỹ không chỉ năng suất thấp mà còn gây tiếng ồn lớn.

Mong muốn của xã
Khi chúng tôi hỏi về việc xã có mong muốn và đề xuất gì, ông Cảnh cho biết: Một là, để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường xã mong muốn Huyện và Thành phố mở thêm vài điểm công nghiệp nữa để quy hoạch các hộ sản xuất lại, tiện cho việc quản lý và kinh doanh. Hai là, Xã cũng mong Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội quan tâm và tổ chức các hội thảo và đề xuất các mô hình bảo vệ môi trường sống cho người dân. Ba là, Huyện, Thành Phố cho lập một quỹ khuyến công để từ đó dạy nghề, và hỗ trợ kinh phí cho các chủ hộ sản xuất đi học thêm các lớp bồi dưỡng nâng cao tay nghề và bảo vệ môi trường. Vì hiện nay vấn đề an toàn lao động, nâng cao tay nghề người lao động và bảo hộ lao động đang là vấn đề cấp thiết đặt ra.

Vì thế, UBND TP. Hà Nội, huyện Thanh Oai cần sớm có những chỉ đạo thiết thực, biện pháp hỗ trợ cụ thể hơn nữa để giải quyết dứt điểm tình trạng ô nhiễm đã tồn tại nhiều năm qua ở xã Thanh Thuỳ.

Mạnh Cường

Các Bài Viết Liên Quan => Quỹ đầu tư Sản Xuất sạchmôi trường xanh Vay Tiềnsản xuất sạch hơnBảo lãnh

Sản xuất sạch hơn

sản xuất sạch hơn

IRV – Chiến lược Sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 07 tháng 9 năm 2009 với mục tiêu phổ biến rộng rãi công cụ này vào các cơ sở sản xuất tại Việt Nam nhằm tăng cường hiệu quả sản xuất công nghiệp, đồng thời giảm thiểu chất thải và tác động của các cơ sở sản xuất đến môi trường và sức khoẻ con người.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là phương pháp luận sản xuất sạch hơn (SXSH) giống như đa phần các công cụ quản lý môi trường khác như hệ thống quản lý môi trường, kiểm toán môi trường, xuất phát từ các nước phát triển với nền sản xuất công nghiệp tiên tiến và nền văn hoá cơ bản khác với Việt Nam về cách suy nghĩ và quan niệm sống. Liệu đây có phải là rào cản đối với việc phổ biến công cụ này tại Việt Nam. 
Nội dung SXSH đã được phổ biến tại Việt Nam từ những năm 90 của thập kỷ trước bằng sự thành lập của Trung tâm sản xuất sạch Việt Nam và nỗ lực của nhiều nhà tài trợ như Thuỵ Điển, Canada, Đan Mạch,… Mặc dù đã được trình diễn tại hàng trăm cơ sở sản xuất và lợi ích của nó đã được chứng minh trên thực tế, được truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, mức độ lan toả của SXSH đã không được như mong muốn. Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn xa lạ, chưa hiểu và chưa áp dụng công cụ này. 
Các chuyên gia và tổ chức trong và ngoài nước đã có một số nghiên cứu đánh giá về những yếu tố có thể được coi là rào cản của SXSH tại Việt Nam. Những rào cản này có thể được phân thành 04 loại hình chính: (1) chính sách của nhà nước, (2) động lực của cơ sở sản xuất, (3) rào cản về kỹ thuật và (3) rào cản về quản lý. 
Về vấn đề chính sách, mặc dầu đã có nhiều cố gắng và đã xây dựng được hệ thống chính sách về bảo vệ môi trường tương đối toàn diện, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn trong việc cưỡng chế tuân thủ đối với các quy định của nhà nước, do vậy, nhiều cơ sở sản xuất còn chưa thực sự quan tâm đến bảo vệ môi trường. Ngoài ra nhiều nguồn lực đầu vào sản xuất (đặc biệt là nước và nhân công) của chúng ta còn quá rẻ so với nhiều nước nên các doanh nghiệp chưa nhìn nhận được tầm quan trọng của việc tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên. 
Rào cản thứ hai, liên quan đến động lực của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp chưa quán triệt quan điểm người gây ô nhiễm phải trả tiền trong chính sách bảo vệ môi trường của nhà nước và cho rằng bảo vệ môi trường là việc của nhà nước. Quan điểm chờ đợi hỗ trợ của nhà nước trong các hoạt động bảo vệ môi trường, trong đó có áp dụng SXSH còn tương đối phổ biến. Các doanh nghiệp cũng chưa thực sự hiểu lợi ích của SXSH đối với tính kinh tế của doanh nghiệp, mà đơn thuần cho rằng SXSH cũng tương tự như việc xây dựng hệ thống xử lý chất thải, thường gây chi phí tăng thêm. 
Về mặt kỹ thuật, nhiều cơ sở sản xuất của ta còn tương đối yếu về kiểm toán và hạch toán nội bộ nên không đo đếm được mức chi phí của mình mất đi theo chất thải. Do vậy, không nhận thấy sự cần thiết áp dụng SXSH để giảm chất thải đồng thời giảm chi phí sản xuất. Việc phổ biến SXSH thường dựa trên mạng lưới các nhà tư vấn, nhưng ngay cả các chuyên gia tư vấn của ta cũng thiếu về số lượng và chất lượng. Đặc biệt thiếu là các chuyên gia SXSH chuyên ngành. 
Mặc dù các rào cản trên là tương đối quan trọng, nhưng đã phần nào được xác định, nhiều giải pháp đã được các cơ quan quản lý đưa ra có tác động khắc phục tích cực. Ví dụ, đối với rào cản chính sách, các cơ quan quản lý ngành tài nguyên và môi trường đã có nhiều nỗ lực trong việc cưỡng chế tuân thủ với pháp luật về bảo vệ môi trường, giá năng lượng và các tài nguyên khác cũng dần tăng lên khiến các doanh nghiệp quan tâm hơn đến việc nâng hiệu quả sử dụng tài nguyên. Bộ Công Thương thông qua Dự án ODA do Đan Mạch tài trợ cũng đang thực hiện nâng cao nhận thức và năng lực cho các cơ sở sản xuất và tăng cường bổ sung các chuyên gia tư vấn về SXSH sạch hơn. 
Loại hình rào cản từ trước đến nay chưa được chú ý nhiều đó là các rào cản mang tính quản lý bao gồm: (1) văn hoá doanh nghiệp, (2) sự phù hợp của SXSH đối với phương thức quản lý của Việt Nam, và (3) kỹ năng quản lý của các chủ doanh nghiệp. Một cuộc điều tra đối với 04 nhóm đại diện bao gồm nhóm chuyên gia tư vấn về SXSH, nhóm cán bộ quản lý nhà nước liên quan đến SXSH, nhóm doanh nghiệp đã áp dụng SXSH và nhóm doanh nghiệp chưa áp dụng SXSH để xác định đây có thực sự là rào cản và nếu là rào cản thì cần phải có những giải pháp gì để khắc phục đã được tiến hành. 
Qua lăng kính của các chuyên gia ngoài nước, người Việt Nam có quan điểm ngại thay đổi, do vậy, các doanh nghiệp do họ quản lý cũng phải chịu văn hoá quản lý “tĩnh”, kém linh hoạt trong việc đưa các công cụ quản lý mới vào áp dụng nếu thực sự không có áp lực từ bên ngoài hoặc động lực về lợi ích kinh tế, đặc biệt là với các công cụ môi trường. Kết quả điều tra cho thấy, đây là một nhận định có nhiều phần đúng và để khắc phục được rào cản này, nhà quản lý cần phải kết hợp giải pháp tăng áp lực từ cơ quan quản lý, đồng thời, tăng cường tuyên truyền về lợi ích của SXSH không chỉ trên phương diện môi trường mà quan trọng hơn đó là lợi ích kinh tế đối với doanh nghiệp khi áp dụng SXSH. 
Nhận định về tính phù hợp của SXSH đối với phương thức quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam, các chuyên gia cho rằng SXSH là một giải pháp có tính quy trình, hệ thống, chủ động và liên tục trong khi các doanh nghiệp Việt Nam quen thuộc hơn với các giải pháp có tính nhiệm vụ, một lần, thiếu chủ động và ngắn hạn. Kết quả điều tra cho thấy nhận định trên phần nào có cơ sở và để SXSH phù hợp với Việt Nam, các hướng dẫn kỹ thuật về SXSH cần được Việt Nam hoá như điều chỉnh thuật ngữ cho gần gũi hơn với ngôn ngữ điều hành sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam; cách mô tả các bước thực hiện cần đơn giản hoá. Đặc biệt kết quả điều tra cho thấy, cần có hướng dẫn riêng và cụ thể hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 
Đối với rào cản là kỹ năng quản lý của các doanh nghiệp, tỷ lệ lớn những người tham gia điều tra đồng ý đây là một rào cản lớn. Sản xuất sạch hơn là một công cụ quản lý, để áp dụng doanh nghiệp trước hết cần phải có hệ thống quản lý tối thiểu, mặt khác, để đo được lợi ích của SXSH, chủ doanh nghiệp cần thường xuyên cập nhật các dữ liệu sản xuất của mình, trong khi đó nhiều doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ không có hệ thống lưu giữ dữ liệu sản xuất. Do vậy, việc nâng cao kỹ năng quản lý sản xuất nói chung cho các doanh nghiệp là rất cần thiết để giúp họ tiếp cận dễ dàng hơn với các phương thức quản lý mới, bao gồm cả SXSH. 
Như vậy qua nghiên cứu cho thấy, ngoài việc tăng cường tuyên truyền, đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật, các cơ quan quản lý cần quan tâm đến các rào cản mang tính quản lý, từ đó, có biện pháp khắc phục nhằm phổ biến thành công SXSH tại Việt Nam, thực hiện mục tiêu của Chiến lược Sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020. 

Bài viết dựa trên luận án Thạc sỹ quản trị kinh doanh quốc tế của tác giả tại Trường Quản lý, Viện Công nghệ Châu Á, Thái Lan.

Các Bài Viết Liên Quan => Quỹ đầu tư Sản Xuất sạchmôi trường xanh Vay Tiềnsản xuất sạch hơnBảo lãnh

Hướng tới sản xuất vùng “rau sạch Túy Loan bền vững”

Từ trước đến nay, rau xanh luôn là  nguồn thực phẩm không thể thiếu đối với những bữa ăn. Từ chế độ ăn uống bình thường, cho đến ăn kiêng  và ăn chay, rau xanh đều là thực phẩm không thể thay thế. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cũng như nhiều loại thực phẩm khác, rau xanh không thoát khỏi danh mục báo động về an toàn vệ sinh thực phẩm. Dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng và cả hóa chất bảo quản thực sự trở thành mối lo ngại về sức khỏe; vấn đề được sử dụng “rau sạch” của người tiêu dùng ngày càng cấp thiết và nhu cầu ngày càng cao. Chính vì thế, để tạo ra sản phẩm “rau sạch” đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường và an toàn vệ sinh thực phẩm, tăng thu nhập cho hộ nông dân, hướng đến mô hình sản xuất nông nghiệp theo chương trình xây dựng Nông thôn mới của Hòa Vang, Hợp tác xã dịch vụ sản xuất và tiêu thụ rau an toàn Túy Loan( xã Hòa Phong) đã được thành lập vào ngày  11/10/2011.Đến nay, Hợp tác xã đã từng bước đi vào hoạt động, mở rộng sản xuất với quy mô 6ha, cùng 44 hộ tham gia với một số mô hình sản xuất hướng theo chuẩn VietGap như: dưa leo, bí đao chanh, khổ qua, rau mầm, cải xanh…

 

Nằm trong hoạt động mục tiêu xây dựng chương trình Nông thôn mới của Hòa Vang, chính quyền huyện đã hỗ trợ cho Hợp tác xã 01 máy làm đất cầm tay trị giá 20 triệu đồng trong khâu làm đất, bên cạnh đó cũng đã hỗ trợ giống rau tạo điều kiện cho các hộ xã viên sản xuất. Bên cạnh đó, Phòng Nông nghiệp&Phát triển Nông thôn huyện phối hợp với Trung tâm Khuyến ngư nông lâm, Chi cục trồng trọt và bảo vệ thực vật hướng dẫn nông dân Hợp tác xã các quy trình sản xuất rau sạch, nâng cao an toàn thực phẩm.

 

Tuy nhiên, hiện nay sản phẩm “rau sạch Túy Loan” mới chủ yếu được  tiêu thụ ở thị trường nhỏ là các chợ trên địa bàn nhưng cũng theo quy trình bán lẻ  cùng với việc có quá nhiều loại rau xanh bày bán la liệt ở các chợ, nhiều nơi lợi dụng “rau sạch Túy Loan” để trục lợi, trộn rau sạch và rau không sạch để bán, gây mất niềm tin người tiêu dùng, chính vì chưa có thương hiệu riêng thế nên nhiều người tiêu dùng đã tìm đến các thương hiệu rau xanh “uy tín” đã được đảm bảo thương hiệu là “rau sạch Đà Lạt” tại các siêu thị lớn trên thành phố Đà Nẵng như BigC, CoopMart dù giá thành của rau xanh trong siêu thị khá cao.

Hướng đến một thương hiệu rau sạch đảm bảo sự tin cậy của người tiêu dùng và mở rộng khả năng tiếp cận thị trường và cải thiên thu nhập hiệu quả, UBND huyện đang triển khai nghiên cứu kế hoạch bố trí mặt bằng và đề xuất Chi cục Phát triển Nông thôn và Quản lý chất lượng Nông Lâm Thủy Sản hỗ trợ kinh phí để xây dựng điểm bán và giới thiệu sản phẩm tại chợ Túy Loan, với sự đầu tư công nghệ chuyên sâu và xây dựng chuỗi cung ứng rau sạch đáp ứng được quy trình chứng nhận VietGap, thu hút các hộ nông dân hợp tác, đầu tư sản xuất tập trung, góp phần tăng trưởng bền vững ngành nông nghiệp huyện; từng bước tạo nên thương hiệu “ rau sạch Túy Loan” không chỉ trong nhu cầu cung ứng địa phương mà tương lai sẽ rộng khắp tại các thị trường lớn tại các địa bàn lân cận./.

           – Minh Chi –

 

tag:  Quy Dau Tu – San Xuat Sach – Moi Truong Xanh – Vay Tien

Hành động để sản xuất sạch hơn trong công nghiệp

Bình Dương là tỉnh có tốc độ phát triển công nghiệp khá cao với giá trị gia tăng bình quân 14/1%/năm. Thế nhưng, bên cạnh những mặt tích cực, Bình Dương nói riêng đang phải đối mặt với ô nhiễm môi trường. Trước thực trạng đó, UBND tỉnh Bình Dương đã ban hành Kế hoạch hành động sản xuất sạch hơn trong công nghiệp trên địa bàn…

 
 Một mô hình sản xuất sạch trong công nghiệ. Sản xuất nước giải khát tại Công ty TNHH nước giải khát Kirin Việt Nam (vốn 100% nước ngoài) tại Khu công nghiệp Mỹ Phước 2

Có áp dụng… nhưng vẫn còn hạn chế

Số liệu thống kê đến cuối năm 2011, Bình Dương có 13.162 doanh nghiệp trong nước đăng ký kinh doanh và 2.054 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Công nghiệp phát triển góp phần giải quyết việc làm, tăng trưởng khu vực công nghiệp – xây dựng và tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thời gian qua, Bình Dương cũng được đánh giá, việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong các cơ sở sản xuất công nghiệp bắt đầu có sự chuyển biến tích cực. Một số doanh nghiệp đã nhận thức được lợi ích của việc áp dụng sản xuất sạch hơn và từng bước cải tiến quản lý, đầu tư đổi mới công nghệ, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, sử dụng nguyên liệu thay thế phát sinh ít chất thải…, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Kết quả ban đầu là thế nhưng việc áp dụng sản xuất sạch hơn vẫn còn hạn chế, một số cơ sở, doanh nghiệp tuy có triển khai nhưng chưa đồng bộ, hiệu quả mang lại chưa cao. Theo khảo sát ở một số doanh nghiệp trên địa bàn, được biết tiềm năng áp dụng sản xuất sạch hơn trong các doanh nghiệp còn rất lớn, có thể tiết kiệm được các nguyên liệu, nhiên liệu, nước, hóa chất… đến 25% năng lượng trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, hiện các doanh nghiệp chỉ mới chú trọng giải pháp xử lý môi trường của các chất thải cuối nguồn (xử lý cuối đường ống), chưa quan tâm sâu sắc tới việc phòng ngừa, ứng phó sự cố về môi trường vào các quá trình sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và giảm thiểu rủi ro cho con người và môi trường.

Sẽ có 50% cơ sở sản xuất công nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn.

Để từng bước đưa sản xuất công nghiệp của tỉnh tiếp cận mục tiêu của sản xuất sạch hơn, sản xuất tránh gây ô nhiễm môi trường bằng việc sử dụng tài nguyên, nguyên vật liệu và năng lượng hợp lý, hiệu quả nhất, các nhà chuyên môn cho biết mục tiêu quan trọng là trong sản xuất công nghiệp, các doanh nghiệp cần bảo đảm công tác bảo vệ môi trường sinh thái và sử dụng hiệu quả, hợp lý nguồn tài nguyên, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng bền vững; đồng thời tăng cường cạnh tranh và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong công nghiệp trên địa bàn và không ngừng giảm tác động tiêu cực đến môi trường; lồng ghép việc thực hiện áp dụng sản xuất sạch hơn vào hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cùng với hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14.000 và các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến khác nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp, góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường.

Các nhà chuyên môn còn cho rằng, chú ý đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ tư vấn, cán bộ quản lý Nhà nước những kiến thức chuyên sâu về sản xuất sạch hơn, đi đôi với tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức và năng lực cho cán bộ, công nhân tại doanh nghiệp về vấn đề này, từng bước áp dụng nó vào hoạt động sản xuất và cải tiến công nghệ thiết bị của đơn vị, phấn đấu đến năm 2015 có 50% cơ sở sản xuất công nghiệp nhận thức được lợi ích của việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp; 25% cơ sở sản xuất công nghiệp có tiềm năng áp dụng vấn đề này sẽ tiết kiệm được từ 5 – 8% mục tiêu năng lượng, nguyên vật liệu trên đơn vị sản phầm; 25% cơ sở sản xuất công nghiệp có nhân viên kỹ thuật kiêm nhiệm về sản xuất sạch hơn.

Muốn đạt được các mục tiêu này, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Thanh Liêm yêu cầu các cấp, các ngành và doanh nghiệp tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình triển khai và thực hiện sao cho có hiệu quả, đó là tăng cường tuyên truyền sâu rộng trên địa bàn, đồng thời xây dựng các đề tài, dự án về quản lý, hướng dẫn, hỗ trợ thúc đẩy ứng dụng và cải tiến công nghệ, xây dựng, phổ biến các cơ sở dữ liệu theo ngành về suất tiêu hao nguyên, nhiên vật liệu và năng lượng trên đơn vị sản phẩm, hỗ trợ xây dựng mô hình thí điểm, nhân rộng các mô hình áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp và chú trọng phát triển đội ngũ chuyên gia để phục vụ cho công tác này.

MAI HUY

(vncpc)

tag: Quy Dau Tu – San Xuat Sach – Moi Truong Xanh – Vay Tien