Ứng dụng công nghệ xanh trong sản xuất vật liệu xây dựng tại Việt Nam

Gạch xi măng cốt liêu đang dần thay thế gạch nung truyền thống (Nguồn: vậtliệukhôngnung.vn)
Là ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều nhiên liệu phụ trợ và có ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng http://sxsh.vntại Việt Nam cần phải có chiến lược tổng thể, dài hạn để tiết kiệm năng lượng cũng như bảo vệ môi trường. Thay thế dần bằng vật liệu không nung
Theo một báo cáo gần đây, cả nước trung bình tiêu thụ mỗi năm hơn 20 tỷ viên gạch cho các công trình xây dựng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới lượng đất sét, diện tích đất nông nghiệp cũng như các nhiên liệu phụ trợ như than, củi, điện… và đặc biệt là mối nguy hại tới môi trường. Với mức tiêu thụ này, tính ra hàng năm nước ta sẽ tiêu tốn khoảng 600 triệu m3 đất sét tương đương với 30 nghìn ha đất canh tác. Dự kiến tới năm 2020, Việt Nam sẽ cần khoảng 42 tỷ viên gạch để phục vụ cho nhu cầu xây dựng.

Do đó, ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng cần phải tiến tới sản xuất sạch, tức là hướng từ vật liệu nung sang vật liệu không nung. Trong đó gạch xi măng cốt liệu là sản phẩm được nhiều doanh nghiệp hướng tới.

Theo đánh giá của các chuyên gia, mỗi năm doanh nghiệp sản xuất gạch không nung sẽ giúp giảm khoảng 30 ngàn tấn C02 thải ra môi trường. Ngoài việc bảo vệ được tài nguyên môi trường còn có lợi ích cao, tận dụng được tài nguyên sẵn có mà không phải phụ thuộc vào giá than.

Với nhiều ưu điểm như cách âm, cách nhiệt tốt hơn và cường độ chịu lực nén cao. Hiện nay các chủ đầu tư công trình thường lựa chọn gạch xi măng cốt liệu thay cho gạch nung truyền thống vì các tính năng của chúng. Ngoài đảm bảo chất lượng, đảm bảo môi trường, loại gạch này thường có sẵn quy chuẩn riêng nên thuận lợi hơn trong việc thi công.

Ông Đặng Việt Lê, Chủ tịch HĐQT Công ty gạch Khang Minh, một doanh nghiệp chuyên sản xuất và cung cấp gạch xi măng cốt liệu cho biết: “Mỗi năm nhà máy sản xuất hơn 155 triệu viên gạch để cung cấp cho thị trường. Ngoài việc kinh doanh vì lợi nhuận ra thì khi sản xuất loại gạch này doanh nghiệp chúng tôi cũng phải nghĩ tới yếu tố môi trường.”

Cũng theo ông Lê, xét về giá cả, gạch xi măng cốt liệu rẻ hơn gạch truyền thống khoảng 20% và đặc biệt dây chuyền sản xuất không khói bụi, không chất thải và giúp bảo vệ tài nguyên đất. Trên thế giới việc sử dụng vật liệu xây dựng không nung đã được thực hiện từ cách đây hàng chục năm.

Trong ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, xi măng cũng là một trong những ngành quan trọng và được hình thành sớm ở nước ta. Hiện nay cả nước có khoảng 90 đơn vị sản xuất trong cả nước, tập trung chủ yếu ở miền Bắc nơi có nguồn nhiên liệu đầu vào lớn. Tuy nhiên trình độ công nghệ lạc hậu do thừa hưởng dây chuyền sản xuất cũ từ những nhiều năm trước, sản xuất bằng công nghệ lò đứng, năng suất không cao, gây tác động xấu tới môi trường, ô nhiêm không khí, chất thải rắn, bụi. Ngành xi măng cũng sử dụng nhiều năng lượng như than, đá vôi khi nung trong lò sinh ra nhiều CO2 do đó đòi hỏi phải có hướng tiếp cận sạch hơn trong sản xuất để hạn chế ô nhiễm.

Chính sách lâu dài hướng tới tăng trưởng xanh

Đứng trước những thách thức này, ngày 28/04/2010 Chính phủ đã có Quyết định 567/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển vật liệu xây dựng tới năm 2020 với mục tiêu phát triển sản xuất và sử dụng vật liệu không nung thay thế cho gạch đất sét nung. Theo đó mục tiêu cụ thể là phải phát triển sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung thay thế gạch đất sét nung đạt tỷ lệ: 20-25% vào năm 2015, 30-40% vào năm 2020. Hàng năm sử dụng khoảng 15-20 triệu tấn phế thải công nghiệp (tro xỉ nhiệt điện, xỉ lò cao…) để sản xuất vật liệu xây không nung, tiết kiệm được khoảng 1.000 ha đất nông nghiệp và hàng trăm ha diện tích đất chứa phế thải và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn các cơ sở sản xuất gạch đất sét nung bằng lò thủ công

Theo định hướng phát triển sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung đến năm 2020, từ năm 2011, các công trình nhà cao tầng (từ 9 tầng trở lên) sẽ sử dụng tối thiểu 30% vật liệu xây không nung loại nhẹ (khối lượng thể tích không lớn hơn 1000 kg/m3) trong tổng số vật liệu xây; Khuyến khích các công trình xây dựng sử dụng vật liệu xây không nung khác có độ rỗng lớn hơn 30% và vật liệu xây không nung loại nhẹ.

Theo ông Lương Đức Long Viện trưởng viện Vật liệu xây dựng – Bộ Xây dựng Việt Nam cần có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất gạch không nung đầu tư, ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật trong quá trình sản xuất để cho ra đời những sản phẩm phù hợp với giá cả phải chăng. Đồng thời cần  tuyên truyền phổ biến tới người tiêu dùng về chất lượng của vật liệu xây dựng không nung không kém mà thậm chí còn có tính ưu viêt hơn vật liệu xây dựng nung.

Cùng với xu hướng thế giới, xu hướng phát triển công nghệ xanh tại Việt Nam đang tạo ra những thử thách mới cho sự cân bằng giữa môi trừơng và nhu cầu phát triển. Đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng ngày càng cần những sản phẩm chất lượng, thân thiện với môi trường. Đứng trước thử thách này, Việt Nam cần phải thật sự hiểu rõ giá trị của công nghệ xanh và có một cái nhìn hướng tới môi trường một cách đầy đủ hơn. Để làm được điều đó, bên cạnh việc tạo môi trường cạnh tranh công bằng, hành lang pháp lý, các doanh nghiệp trong ngành chế tạo vật liệu xây dựng cũng cần phải đầu tư nghiên cứu ứng dụng các công nghệ hiện đại, công nghệ sạch trong quá trình hoạt động./.
 http://sxsh.vn

Phát triển công nghệ xanh: Doanh nghiệp cần vốn

Phát triển bền vững bằng những công nghệ thân thiện với môi trường, giảm tối đa phế thải độc hại và tăng cường khả năng tái chế; đầu tư công nghệ mới, sử dụng năng lượng hợp lý…là xu hướng các doanh nghiệp hướng đến để đối phó với tình trạng suy thoái môi trường đang diễn ra ngày càng phức tạp.

Phát triển công nghệ xanh: Doanh nghiệp cần vốn

Phát triển công nghệ xanh: doanh nghiệp cần vốn

 Tuy nhiên, đến nay, không ít doanh nghiệp chưa quan tâm tới yêu cầu này. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu vốn.

Theo ông Nguyễn Quang Vinh – Trưởng Văn phòng phát triển bền vững (PTBV) – Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, bảo vệ môi trường đã và đang trở thành tiêu chí trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Để phù hợp với tiêu chí này, nhiều doanh nghiệp đã tự đổi mới để hoạt động sản xuất và cao hơn là làm ra sản phẩm thân thiện hơn với môi trường. Điển hình như: Vinacomin mỗi năm đầu tư trên 700 tỷ đồng cho bảo vệ môi trường, trong đó, khoảng 60-70% số vốn được dành cho các dự án sử dụng nguồn quỹ môi trường tập trung. Bên cạnh đó, tập đoàn đã dành hàng trăm tỷ đồng xây dựng 30 trạm xử lý nước thải, thực hiện một số dự án cải tạo, phục hồi môi trường các bãi thải mỏ; phấn đấu đến năm 2020, cơ bản cải thiện môi trường vùng than Quảng Ninh. Không chỉ các tập đoàn lớn mà nhiều doanh nghiệp cũng đã quan tâm đến bảo vệ môi trường, như: Công ty CP Xi măng Hạ Long đã đầu tư 6 tỷ đồng để thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường trong năm 2011. Theo kế hoạch, năm 2012, công ty tiếp tục đầu tư trên 6 tỷ đồng cho hoạt động này.

Bên cạnh các doanh nghiệp mạnh, tích cực đầu tư bảo vệ môi trường (BVMT), còn rất nhiều doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến việc đầu tư bảo vệ cảnh quan, môi trường sản xuất. Ông Nguyễn Quang Vinh nhìn nhận, việc chuyển mình của các doanh nghiệp trong công tác BVMT hiện rất chậm. Bằng chứng là, Văn phòng PTBV đã được thành lập hơn 2 năm với mục đích hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện công tác BVMT, sản xuất xanh hơn, nhưng trên cả nước chỉ có khoảng 30 DN tham gia.

Giải thích nguyên nhân của tình trạng này, các doanh nghiệp cho rằng, khó khăn lớn nhất là họ rất thiếu vốn, trong khi việc tiếp cận những nguồn vốn vay ưu đãi lại không dễ dàng. Ông Bùi Cách Tuyến – Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường – thừa nhận: Cho đến nay, Nhà nước đã chi không dưới 1% tổng chi ngân sách cho các hoạt động sự nghiệp BVMT. So với thực trạng ô nhiễm hiện nay, mức chi này chưa thấm vào đâu. Hiện các cơ quan chức năng đang kiến nghị cần tiếp tục nâng dần mức chi cho sự nghiệp BVMT qua từng năm, đảm bảo đến năm 2015 đạt không dưới 2% tổng chi ngân sách nhà nước.

Để giúp các doanh nghiệp thực hiện tốt “công nghệ xanh”, các cơ quan, ban, ngành chức năng cần khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ thân thiện với môi trường vào sản xuất; áp dụng công nghệ, quy trình sản xuất sạch hơn nhằm giảm thiểu chất phát thải gây hiệu ứng nhà kính; cam kết sử dụng và tiêu thụ năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; tăng cường sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo nhằm giảm khí CO2 gây biến đổi khí hậu toàn cầu; tăng cường xử lý chất thải, phát triển những sản phẩm thân thiện với môi trường; tiến tới hình thành ngành công nghiệp tái chế tại Việt Nam…

Cần quan tâm sản xuất sạch hơn trong công nghiệp

Hà Tĩnh là tỉnh có bước “đột phá” mạnh về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công, thu hút nhiều doanh nghiệp vào đầu tư xầy dựng nhà máy sản xuất, chế biến tạo ra những sản phẩm hàng hóa mang lại giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong sản xuẩt của các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất thì vẫn chưa được quan tâm đúng mức.

Cần quan tâm sản xuất sạch hơn trong công nghiệp

Các cơ sở sản xuất cơ khí cần áp dụng sản xuất sạch hơn

Những năm gần đây, Hà Tĩnh thu hút được nhiều dự án lớn mang tầm quốc gia, quốc tế vào trên địa bàn với hàng tỷ USD. Qua đó, những dự án này đang góp phần làm gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương. Cùng với các dự án trọng điểm thì phát triển tại các khu CN và cụm CN, làng nghề được tỉnh chú trọng. Toàn tỉnh có 3 khu công nghiệp và 13 cụm công nghiệp với tổng diện tích hơn 845 ha có tổng mức đầu tư cơ sở hạ tầng hơn 1.540 tỷ đồng. Hiện tại đã thu hút 81 dự án đăng ký đầu tư với số vốn gần 5000 tỷ đồng, trong đó 60 dự án đã đầu tư và đi vào sản xuất. Ngoài ra, trên địa bàn còn có hơn 13.900 cơ sở sản xuất công nghiệp, giải quyết việc cho 65.000 lao động thường xuyên, mang lại giá trị sản xuất công nghiệp đạt 2.077 tỷ đồng (năm 2010), tăng gấp 2 lần so năm 2005. Tuy nhiên, việc áp dụng sản xuất sạch hơn (SXSH) trong các cơ sở công nghiệp thì ở tỉnh ta vẫn chưa được nhiều doanh nghiệp thật sự quan tâm. Theo Chỉ thị 08/CT-BCN của Bộ Công nghiệp (nay Bộ Công thương) năm 2007 thì sản xuất sạch hơn trong công nghiệp tức là doanh nghiệp phải cải tiến liên tục quá trình sản xuất công nghiệp, sản phẩm và dịch vụ để giảm sử dụng tài nguyên thiên nhiên, để phòng ngừa tại nguồn ô nhiễm không khí, nước và đất, và giảm phát sinh chất thải tại nguồn, giảm thiểu rủi ro cho con người và môi trường. Mặt khác sản xuất sạch hơn bao gồm tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng, loại trừ các nguyên liệu độc, giảm lượng và độ độc của các dòng thải trước khi đi ra khỏi quá trình sản xuất, đồng thời làm giảm ảnh hưởng trong toàn bộ vòng đời của sản phẩm từ khâu chế biến nguyên liệu đến khâu thải bỏ cuối cùng. Vì vậy, việc áp dụng SXSH trong sản xuất công nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Mới đây, qua khảo sát cho thấy đại đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh ta đầu tư nâng cấp thiết bị công nghệ theo kiểu chắp vá, không đồng bộ; quy hoạch không hợp lý kéo theo công tác quản lý lỏng lẻo, chồng chéo dẫn đến nguy cơ ô nhiễm môi trường rất lớn. Nguy hại nhất hiện này là ngành sản xuất vật liệu xây dựng như gạch, ngói có lượng khí thải lớn đang tác động không nhỏ đến chất lượng môi trường không khí. Một số cơ sở sản xuất, làng nghề TTCN truyền thống mộc, rèn đúc… còn xả thải một khối lượng lớn chất thải trực tiếp ra môi trường vượt quá tiêu chuẩn cho phép, gây ô nhiễm môi trường đất, nước, khí… ảnh hưởng tới sức khoẻ con người. Ngoài một số nhà máy mới xây dựng được đầu tư thiết bị, công nghệ khá hiện đại thì đa số các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn đều có thiết bị công nghệ lạc hậu. Đặc biệt, trong lĩnh vực sản xuất, sửa chữa cơ khí, dệt may, chế biến nông lâm sản, chế biến thực phẩm, tuy mới đầu tư nhưng thiết bị công nghệ chỉ ở mức trung bình yếu, thiếu các dây chuyền tự động hoá, các thiết bị chuyên dùng nên năng lực sản xuất còn kém xa so với các nước. Để doanh nghiệp từng bước áp dụng SXSH vào sản xuất, ngành Công Thương đang tập trung xây dựng chương trình hành động SXSH trong công nghiệp giai đoạn 2011-2015. Giải pháp trước mặt là đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tập huấn cho các doanh nghiệp về sản xuất sạch hơn trong công nghiệp. Làm thế nào để các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp xác định áp dụng SXSH là có lợi cho mình nhằm tiết kiệm được các chi phí tiêu hao năng lượng, nguyên liệu vật tư đầu vào. Qua đó, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần làm giảm thiểu các chất thải trong quá trình sản xuất. Hiện nay tỉnh cũng đang tiến hành rà soát lại các doanh nghiệp chưa áp dụng SXSH trong sản xuất kinh doanh để từ đó tư vấn, hỗ trợ nghiệp vụ chuyên môn nhằm giúp các cơ sở áp dụng một cách triệt để quá trình SXSH trong công nghiệp. Mặt khác, phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tiến hành các thủ tục đăng ký việc đánh giá công nghệ tiên tiến, hiện đại tránh việc lắp đặt những công nghệ cũ gây ô nhiễm môi trường. Qua đó, vấn đề đổi mới và nâng cao năng lực các thiết bị công nghệ sẽ được các doanh nghiệp quan tâm chú trọng, đưa SXSH vào sản xuất công nghiệp. Bài, ảnh: Hoàng Long…

Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp

Nhận thức được tầm quan trọng và vai trò cấp thiết của  sản xuất sạch hơn (SXSH) trong công nghiệp, ngày 07/9/2009 Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số 1419/QĐ-TTCP phê duyệt “Chiến lược  sản xuất sạch hơn  trong công nghiệp đến năm 2020″. Quyết định này đã nêu ra những chỉ tiêu, lộ tình cụ thể và những dự án mà các Bộ, ngành địa phương cần phải làm để thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng SXSH nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu; Giảm thiểu phát thải và hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm; bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, sức khỏe con người và phát triển bền vững.

Mục tiêu của chiến lược đặt ra trong giai đoạn từ nay đến năm 2015 là 50% cơ sở sản xuất công nghiệp nhận thức được lợi ích của việc áp dụng  SXSH trong công nghiệp; 25% cơ sở sản xuất công nghiệp sẽ áp dụng SXSH và những cơ sở này xé tiết kiệm được từ 5-8% mức tiêu thụ năng lượng, nguyên-nhiên-vật liệu trên một đơn vị sản phẩm. Ngoài ra, 70% các cơ sở công thương có cán bộ chuyên trách đủ năng lực hướng dẫn áp dụng SXSH  trong công nghiệp.

Giai đoạn từ năm 2016-2020, mục tiêu của chiến lược là đưa 90% cơ sở sản xuất công nghiệp nhận thức được lợi ích của việc áp dụng SXSH trong công nghiệp. Đồng thời, 50% cơ sở sản xuất công nghiệp sẽ áp dụng SXSH và sẽ tiết kiệm được từ 8-13% mức tiêu thụ năng lượng, nguyên-nhiên-vật liệu/1 đơn vị sản phẩm. Ngoài ra, 90% doanh nghiệp vừa và lớn sẽ có bộ phận chyên trách về  SXSH. Cũng trong giai đoạn này, mục tiêu của chiến lược là 90% các sở công thương sẽ có cán bộ chuyên trách đủ năng lực hướng dẫn áp dụng SXSh trong công nghiệp.

Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược, Bộ Công Thương đã thành lập ngay Ban điều hành, Văn phòng giúp việc và khởi động xây dựng thông tư hướng dẫn quản lý kinh phí, xây dựng khung các đề án.

Trong năm 2010, với sự hỗ trợ của Văn phòng giúp việc Chiến lược, Bộ Công Thương sẽ tập trung triển khai nội dung của 5 đề án và đã bố trí nguồn kinh phí để thực hiện đó là:

  • Nâng cao nhận thức và năng lực áp dụng SXSH trong công nghiệp;
  • Xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu và trang thông tin điện tử về SXSH trong công nghiệp;
  • Hỗ trợ kỹ thuật về áp dụng SXSH tại các cơ sở sản xuất công nghiệp;
  • Hoàn thiện mạng lưới các tổ chức hỗ trợ SXSH trong công nghiệp; và
  • Hoàn thiện các cơ chế chính sách về tài chính thúc đẩy áp dụng SXSH trong công nghiệp.

Để chiến lược đạt được những kết quả tốt nhất, Bộ Công Thương và Hợp phần SXSH trong công nghiệp sẽ hỗ trợ cho các địa phương dưới các hình thức như  sau: tổ chức đào tạo cho các cán bộ của Sở và Trung tâm khuyến công về SXSH theo nhu cầu; Hỗ trợ kinh phí và kỹ thuật để xây dựng kế hoạch hướng dẫn về SXSH cho các cơ sở công nghiệp trên địa bàn cũng như đề án thành lập các đơn vị hỗ trợ SXSH tại các Trung tâm khuyến công.

Đặc biệt, đối với công tác truyền thông, các địa phương sẽ được hỗ trợ kinh phí để in tờ rơi, làm phim, tổ chức các hội thảo cũng như các khoá đào tạo về SXSH cho các cơ sở công nghiệp trong tỉnh. Ngoài ra, các Trung tâm khuyến công cũng sẽ được hỗ trợ kinh phí để tổ chức đánh giá SXSH cho các cơ sở công nghiệp.

Bên cạnh những nội dung đó thì hàng năm Bộ Công Thương tổ chức đăng ký kinh phí thực hiện các đề án Chiến lược SXSH tại Bộ Tài chính và sẽ nhận đăng ký của các Sở và Trung tâm khuyến công để văn phòng giúp việc của ban điều hành chiến lược có kế hoạch xây dựng cơ chế hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật.

Triển vọng mới cho nghành công nghệ sạch

triển vọng mới cho ngành công nghệ sạch

Triển vọng mới cho ngành công nghệ sạch

Tái sử dụng chất thải để phục vụ sản xuất, tái chế chất thải thành các sản phẩm có ích là một giải pháp được nhiều doanh nghiệp ứng dụng. Đây được coi là hướng đi mới của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh trong việc tiết kiệm năng lượng, tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, mở ra triển vọng mới cho ngành công nghiệp sạch trong tương lai.

Tái chế chất thải, lợi cả đôi đường

Bộ Công thương, Tổng cục Môi trường và Ban Quản lý các khu công nghiệp (KCN) tỉnh đã có văn bản ủng hộ và đánh giá cao giải pháp tiết kiệm năng lượng – bảo vệ môi trường của Nhà máy giấy Sài Gòn – Mỹ Xuân (Công ty TNHH Một thành viên giấy Sài Gòn – Mỹ Xuân) tại KCN Mỹ Xuân A, huyện Tân Thành. Theo đó, các cơ quan này khẳng định, việc Nhà máy giấy Sài Gòn – Mỹ Xuân ứng dụng công nghệ lò hơi tầng sôi tuần hoàn dùng nhiên liệu là phụ phẩm nông nghiệp và các chất thải công nghiệp không nguy hại phát sinh từ hoạt động của nhà máy là việc làm phù hợp với chủ trương, chính sách về tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường hiện nay. Công ty CP Tài nguyên Xanh, đơn vị tư vấn cho biết: Việc lắp đặt lò hơi công nghệ tầng sôi tuần hoàn giúp cho Nhà máy Giấy Sài Gòn – Mỹ Xuân thay thế được nguồn nhiên liệu dầu FO, khí đốt, tiết kiệm được chi phí năng lượng và giải quyết được vấn đề môi trường liên quan đến các chất thải rắn thông thường phát sinh hàng ngày như phế liệu giấy đầu vào (nilon, giấy phế liệu không thể tái chế,…). Xử lý, tiêu hủy hoàn toàn lượng bùn thải từ hệ thống xử lý nước thải; đồng thời tận dụng được nhiệt năng từ nguồn chất thải này để cung cấp hơi cho hoạt động sản xuất của nhà máy. Mặt khác, việc xử lý trực tiếp chất thải rắn không phải là chất thải nguy hại có khả năng cháy tại nhà máy thay vì phải chuyển giao cho các đơn vị có chức năng xử lý chất thải rắn bằng giải pháp đốt cũng sẽ tận dụng được năng lượng phát sinh nhiệt từ quá trình đốt, không gây lãng phí tài nguyên đất đai do phải chôn lấp…

Các nhà khoa học về môi trường của Trường Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh cũng đã đánh giá cao hiệu quả của Nhà máy xử lý – tái chế chất thải lỏng sinh hoạt thành phân vi sinh phục vụ cho ngành nông nghiệp của Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Đại Nam (Khu xử lý chất thải tập trung Tóc Tiên, huyện Tân Thành). Đây là nhà máy có công nghệ xử lý phù hợp với thực tế chất thải lỏng sinh hoạt tại Việt Nam và là một trong 2 nhà máy đầu tiên trong nước hoạt động trong lĩnh vực này… Theo Sở Tài nguyên và Môi trường, để góp phần ngăn chặn tình trạng đổ xả chất thải lỏng sinh hoạt bừa bãi, gây ảnh hưởng đến môi trường và cảnh quan, nhà máy này có chủ trương miễn phí việc xử lý chất thải lỏng sinh hoạt cho các cá nhân và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Một điển hình khác trong việc tái chế chất thải là dự án tái chế xỉ thép của Công ty TNHH Vật liệu Xanh có nhà máy tại huyện Tân Thành. Với dự án này, Hội đồng khoa học của Bộ Tài nguyên – Môi trường khẳng định: Sử dụng xỉ thép sau xử lý thay thế cho các vật liệu có nguồn gốc tự nhiên sẽ đáp ứng được việc bảo vệ môi trường, hạn chế được khai thác tài nguyên thiên nhiên và thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp tái chế chất thải theo đúng chủ trương của Nhà nước. Dự án đầu tư Nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng từ xỉ lò điện lò quang có công suất 1.000 tấn/ngày tại Bà Rịa-Vũng Tàu là dự án đầu tiên về tái chế xỉ thép tại Việt Nam được Bộ Tài nguyên – Môi trường thẩm định và thông qua. Các sản phẩm của dự án bao gồm gạch không nung, xỉ thay thế cho vật liệu có nguồn gốc tự nhiên, vật liệu lọc dùng cho xử lý nước thải…

Sẽ “khai tử” việc chôn lấp túi nilonĐối với việc xử lý túi nilon, cách làm truyền thống là chôn lấp cùng với rác hoặc được người dân sinh sống tại các bãi rác nhặt, đóng bao và bán cho các cơ sở tái chế nilon quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu. Túi nilon thải được tái chế lại thành các sản phẩm có chất lượng tương đối thấp, không có giá trị cao, đổi lại môi trường sẽ phải tiếp nhận thêm nhiều loại chất thải mới, mức độ độc hại cao hơn (nước thải, khí thải) và điều quan trọng là những sản phẩm từ túi nilon thải cũng không thể mất đi và theo thời gian sẽ tiếp tục phải thải bỏ vào môi trường. Do đó, việc tái sử dụng túi nilon thải theo cách làm truyền thống như hiện nay chỉ là một hình thức biến chất thải từ dạng này sang dạng khác… Tại Việt Nam, đã có một số dự án tái chế túi nilon thải thành dầu bằng công nghệ nhiệt phân như: Nhà máy chế biến rác thải nilon thành dầu do Công ty CP Môi trường Việt Nam làm chủ đầu tư tại TP. Đà Nẵng; nhà máy chế biến dầu từ nhựa thải của Công ty TNHH Công nghệ mới ở Bình Phước. Mới đây, các Sở Tài nguyên – Môi trường, Xây dựng, Công thương, Khoa học – Công nghệ và UBND huyện Tân Thành đã có văn bản ủng hộ một dự án tái tạo năng lượng từ chất thải đầu tư vào Khu xử lý chất thải tập trung Tóc Tiên. Đồng thời, UBND tỉnh đã có văn bản chỉ đạo các sở, ngành chức năng hỗ trợ dự án hoàn tất các thủ tục về đầu tư để sớm đi vào hoạt động.Theo chủ đầu tư dự án này, các sản phẩm tái chế từ nhựa, túi nilon sẽ là nguồn nhiên liệu tốt có thể thay thế một phần hoặc 100% cho các lò đốt đang sử dụng dầu DO và FO hiện nay. Công nghệ tái chế nilon thải thành dầu đảm bảo được các yêu cầu về bảo vệ môi trường, nilon được tái chế 100% vì toàn bộ công nghệ hoạt động theo quy trình kín, khí thải không phát sinh chất độc hại, được tuần hoàn tạo ra nhiệt lượng phục vụ lò nhiệt phân nilon thải, tro thu được sử dụng làm vật liệu xây dựng,… không có chất thải thải vào môi trường. Ngoài lợi ích xử lý triệt để được nilon thải, tạo ra được nguồn năng lượng mới, việc tái chế nilon thành dầu còn giúp nâng cao ý thức phân loại rác thải tại nguồn vì loại chất thải như túi nilon sẽ được bán làm nguyên liệu có giá trị, đồng thời nó còn giúp cho địa phương giảm được chi phí xử lý rác từ nguồn ngân sách Nhà nước khi giảm được khối lượng rác thải đầu vào khi giao cho đơn vị xử lý rác do nilon đã được phân loại ngay tại nguồn.

Sử dụng công nghệ sạch tốt cho sức khỏe cộng đồng

Sử dụng công nghệ sạch tốt cho sức khỏe cộng đồng

Sử dụng công nghệ sạch tốt cho sức khỏe cộng đồng

Sử dụng công nghệ sạch không những rất tốt cho sức khỏe cộng đồng mà còn còn giúp tiết kiệm chi phí – Chủ tịch Nhóm Phát triển Liên Hợp quốc cho biết như vậy trong chuyến thăm làng Bát Tràng – một trung tâm nghề gốm cổ truyền của Việt Nam hồi giữa tháng 6.

Bà Helen Clark, Chủ tịch Nhóm Phát triển Liên Hợp quốc UNDP, thăm làng Bát Tràng, một trung tâm nghề gốm cổ truyền của Việt Nam, nhằm khuyến khích sử dụng công nghệ  sản xuất sạch hơn ở các lò gốm.

“Tôi nghĩ Việt Nam có cơ hội rất lớn với tiềm năng khí hậu sẵn có cho các công tác liên quan đến thích ứng và giảm nhẹ tác động đến môi trường – ý tôi ở đây là các công nghệ năng lượng sạch hơn. Sử dụng công nghệ sạch sẽ rất tốt cho sức khỏe cộng đồng, và ở đây sử dụng công nghệ sạch còn giúp tiết kiệm chi phí. ” – bà Helen Clark phát biểu.

Dự án kéo dài năm năm này được cấp kinh phí bởi Quỹ Môi trường Toàn cầu/ UNDP (5,5 triệu dollar Mỹ) và Chính phủ Việt Nam (23,5 triệu dollar Mỹ) là một phần của một sáng kiến lớn hơn do UNDP hỗ trợ nhằm làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hoạt động thân thiện hơn với môi trường.

Đến nay, hơn 400 doanh nghiệp Việt Nam đã được tiếp cận với công nghệ sử dụng năng lượng hiệu quả hơn, giúp họ giảm mức tiêu thụ năng lượng. Đồng thời, lợi nhuận của các doanh nghiệp tham gia vào sáng kiến này cũng đã tăng lên – nhờ tiết kiệm được năng lượng một cách trực tiếp và nhờ những cải thiện về chất lượng sản phẩm, ví dụ như lĩnh vực sản xuất gạch và gốm hiện đang sử dụng các lò nung hiện đại hơn.

Sản xuất sạch hơn trong công nghiệp: Sự phát triển bền vững của doanh nghiệp

Xu hướng phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường, đang được nhiều nước phát triển và đang phát triển đặc biệt quan tâm. Trong bối cảnh đó, các giải pháp mới như công nghệ sạch, SXSH, công nghiệp thân thiện với môi trường,… ngày càng được nhiều quốc gia, nhiều tập đoàn kinh tế chú trọng, lựa chọn như một xu hướng tất yếu cho các chiến lược phát triển ngắn hạn và dài hạn của mình. Riêng với các DN, việc đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất gắn với giảm thiểu ô nhiễm môi trường còn mang lại hiệu quả cao và bền vững trong kinh doanh. Bởi, theo Vụ Khoa học – Công nghệ (Bộ Công Thương), SXSH sẽ giúp các DN nâng cao hiệu quả sản xuất, tái sử dụng phế phẩm và bán thành phẩm có giá trị, tạo hình ảnh tốt hơn cũng như cải thiện được sức khỏe cho người lao động. Khi triển khai thực hiện mô hình SXSH, người quản lý sẽ xác định được hàm lượng nguyên vật liệu đầu vào bị thất thoát, hiểu được tại sao gây ra lãng phí, tiếp cận một cách có hệ thống để giảm thiểu sự thất thoát và đề ra các kế hoạch hành động cụ thể, đồng thời quan trắc liên tục hiện trạng phát thải và tình trạng ô nhiễm môi trường.

Công nghiệp sạch – xu hướng tất yếu:

Theo số liệu của Trung tâm SXSH Việt Nam, sau hơn 4 năm thực hiện kế hoạch hành động quốc gia về SXSH, các DN tham gia dự án đã tiết kiệm được nguồn kinh phí tương đối lớn hằng năm, như: ngành dệt 2.800 – 73.000USD, ngành giấy 91.000 – 159.000USD, sản xuất thực phẩm 6.700 – 24.600USD… Chẳng hạn như trong Dự án “Quản lý chất thải nguy hại tại thành phố Nam Định”, với 33 DN tham gia, đã tiết kiệm chi phí hằng năm 620.000USD nhờ việc giảm tiêu thụ điện (485MWh), than (1.800 tấn), dầu FO (470 lít), gas (1.900 lít)… Điều đó cho thấy, SXSH đã và đang mang lại lợi ích về nhiều mặt, không chỉ cho xã hội, môi trường mà còn cho cả bản thân DN.

Cơ hội cho Quảng Nam

Tuy mới ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, nhưng sự phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch ở Quảng Nam thời gian qua đã và đang tiếp tục làm phát sinh những vấn đề môi trường khá bức xúc. Hiện nay, tại các khu công nghiệp (KCN) như Điện Nam – Điện Ngọc, Thuận Yên, Bắc Chu Lai, Tam Hiệp… đã có hơn 100 dự án đang hoạt động, hệ thống xử lý chất thải chưa được đầu tư đồng bộ, gây ra ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng. Theo khảo sát mới đây của Sở Tài nguyên và Môi trường, riêng tại KCN Điện Nam – Điện Ngọc, nước thải do các cơ sở sản xuất xả ra môi trường có nồng độ các chất ô nhiễm cao gấp nhiều lần so với tiêu chuẩn cho phép. Uớc tính, khối lượng trung bình mỗi ngày chất thải rắn công nghiệp tại KCN này thải ra khoảng 10 tấn, trong đó, có khoảng 35 – 41% là chất thải nguy hại. Ngoài các KCN, hoạt động của các cơ sở sản xuất tại 20 cụm công nghiệp cũng đang gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Một số nhà máy, xí nghiệp đi vào hoạt động nhiều năm qua nhưng vẫn chưa đầu tư hệ thống xử lý chất thải. Vì thế, toàn bộ chất thải, nước thải “tự do” đổ thẳng ra ao hồ, sông suối…

Trong bối cảnh như vậy, việc Chương trình DCE, Hợp phần SXSH chính thức tài trợ cho 3 DN Quảng Nam áp dụng mô hình SXSH trong công nghiệp không chỉ là cơ hội cho các DN thụ hưởng chương trình đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả kinh doanh, mà còn góp phần nâng cao nhận thức về SXSH cho cộng đồng DN và các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh. Ông Huỳnh Khánh Toàn – Giám đốc Sở Công nghiệp cho biết: “Qua khảo sát, Đoàn công tác của Ban Chỉ đạo hợp phần thuộc Bộ Công Thương phối hợp với Sở Công nghiệp đã chọn 3 DN, gồm: Xí nghiệp Sản xuất mây tre lá xuất khẩu Âu Cơ (Núi Thành), Nhà máy tinh bột sắn Quảng Nam và Công ty TNHH sản xuất và dịch vụ Mỹ Hưng để tài trợ áp dụng mô hình SXSH. Trong thời gian tới, mô hình này sẽ tiếp tục được nhân rộng ra nhiều DN khác trên địa bàn tỉnh”. Cũng theo ông Toàn, các DN áp dụng mô hình SXSH sẽ được hỗ trợ kinh phí trong công tác tư vấn kỹ thuật và đầu tư thiết bị, công nghệ nhằm nâng cao năng lực sản xuất, gắn với bảo vệ môi trường, góp phần cải thiện điều kiện sống cho công nhân và các khu dân cư lân cận.

Hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất sạch và xử lý chất thải

hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất và xử lý chất thải

Toàn cảnh hội thảo (ảnh: st)

Ngày 9/11, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức hội thảo giới thiệu Dự án “Đào tạo sản xuất sạch hơn và quản lý chất thải cho các doanh nghiệp tại Viêt Nam”.

Theo ông Đoàn Duy Khương, Phó Chủ tịch VCCI, ngày càng nhiều doanh nghiệp Việt Nam nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của sản xuất sạch hơn và quản lý chất thải trong quá trình xây dựng, củng cố uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp trong bối cảnh người tiêu dùng luôn coi trọng vấn đề bảo vệ sức khỏe con người, môi trường sống xung quanh. “Kinh nghiệm cho thấy, về trung hạn và dài hạn, nếu các doanh nghiệp tích hợp xử lý môi trường trong chiến lược kinh doanh sẽ nâng cao hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, kiến thức và hành động cụ thể về sản xuất sạch hơn và quản lý chất thải vẫn còn rất hạn chế, đặc biệt là tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, ông Đoàn Duy Khương cho biết.

Dự án “Đào tạo sản xuất sạch hơn và quản lý chất thải cho các doanh nghiệp tại Việt Nam” do Văn phòng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững (thuộc VCCI) triển khai thực hiện, dưới sự tài trợ của Công ty TNHH Dow Chemical International và hỗ trợ kỹ thuật của Trung tâm Môi trường và Sản xuất sạch (Bộ Công thương).

Dự án được đề xuất trong bối cảnh Việt Nam trong hơn 15 năm qua đã và đang nỗ lực thực hiện các chương trình, dự án liên quan đến sản xuất sạch hơn và quản lý chất thải, góp phần nâng cao năng lực của cộng đồng doanh nghiệp trên cả 2 phương diện phát triển: Tăng trưởng và giữ gìn môi trường sinh thái.

Chương trình đào tạo về sản xuất sạch hơn và quản lý chất thải sẽ cung cấp cho doanh nghiệp công cụ chính để nâng cao năng lực về ứng phó với vấn đề quản lý chất thải, cải thiện hiệu suất sản xuất thông qua ứng dụng chu trình sản xuất sạch hơn trong quá trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp trong các ngành nghề công nghiệp và kinh doanh khác nhau.

Hoạt động chính của dự án là tổ chức 28 khóa học ở 25 tỉnh, thành phố trên cả nước trong vòng 2 năm (2012 – 2014). Thông qua sự hỗ trợ của dự án sẽ giúp doanh nghiệp Viêt Nam thay đổi cách nhìn nhận và lập chiến lược kinh doanh về môi trường bền vững, bao gồm cách tiếp cận chủ động tới sản xuất sạch hơn và quản lý chất thải ngay từ đầu nguồn.

Tăng cường chính sách thương mại và đầu tư trong lĩnh vực môi trường

Chiều 9/11/2012, tại Hà Nội, được sự ủy quyền của Bộ TN&MT, Tổng cục Môi trường, Tổng cục Biển và Hải đảo đã có buổi làm việc với Đoàn chuyên gia Dự án Hỗ trợ chính sách thương mại và đầu tư của Châu Âu (EU-MUTRAP). Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Nguyễn Thế Đồng đã tham dự buổi làm việc.

Dự án EU-MUTRAP với mục tiêu tổng thể nhằm hỗ trợ Việt Nam hội nhập sâu hơn vào hệ thống thương mại toàn cầu, ASEAN và hợp tác tiểu vùng, tăng cường quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EU, tối đa hóa lợi ích của quá trình phát triển kinh tế, bao gồm tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Tại buổi làm việc, hai bên đã bàn về các nội dung, kế hoạch của đề xuất các dự án, kế hoạch hợp tác trong thời gian tới nhằm cải thiện khuôn khổ chính sách về đầu tư, tập trung vào các vấn đề xã hội và môi trường trong các chính sách và pháp luật liên quan đến thương mại và đầu tư.

Giới thiệu về Dự án EU-MUTRAPHiệp định tài chính: DCI-ASIE/2011/022-818Ngân sách: 16.500.000 EUR bao gồm tài trợ của Liên minh Châu Âu, đóng góp của Chính phủ Việt Nam và các bên hưởng lợi.Cơ quan điều hành và thực hiện Dự án: Bộ Công ThươngThời gian thực hiện Dự án: từ ngày 27/8/2012 đến ngày 31/01/2018

Mục tiêu tổng thể: Hỗ trợ Việt Nam hội nhập sâu hơn vào hệ thống thương mại toàn cầu, ASEAN và hợp tác tiểu vùng, tăng cường quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EU, tối đa hóa lợi ích của quá trình phát triển kinh tế, bao gồm tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo.

Mục đích cụ thể của Dự án: Hỗ trợ Bộ Công Thương tiến hành thuận lợi hóa thương mại quốc tế và đầu tư thông qua việc tăng cường năng lực hoạch định chính sách, tham vấn chính sách, đàm phán và thực thi các cam kết liên quan, đặc biệt là trong quan hệ với EU.

Các kết quả chính: Các kết quả chính dự kiến của Dự án bao gồm:

1. Tăng cường quan hệ thương mại, đầu tư giữa EU và Việt Nam thông qua đối thoại và hợp tác, đàm phán và thực thi một hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và EU trong tương lai.

2. Nâng cao năng lực thể chế trong đàm phán và thực thi các cam kết thương mại đa phương, khu vực và tiểu khu vực.

3. Cải thiện khuôn khổ chính sách về đầu tư, tập trung vào các vấn đề xã hội và môi trường trong các chính sách và pháp luật liên quan đến thương mại và đầu tư.

4. Tăng cường khả năng tiếp cận thông tin, quy định và cơ hội thị trường liên quan đến cam kết thương mại và đầu tư quốc tế của Việt Nam; tăng cường sự tham gia của các bên liên quan vào quá trình xây dựng chính sách thương mại và đầu tư; và nâng cao năng lực của doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đáp ứng các quy định tiếp cận thị trường của châu Âu.

5.  Hỗ trợ đối thoại EU-Việt Nam trong các nội dung kinh tế của Hiệp định đối tác và hợp tác toàn diện (PCA), và dành sự hỗ trợ linh hoạt để giải quyết các vấn đề thương mại quan trọng, cấp thiết.

Một số hình ảnh tại buổi làm việc:

Tăng cường chính sách thương mại và đầu tư trong lĩnh vực môi trường
Tăng cường chính sách thương mại và đầu tư trong lĩnh vực môi trường
Tăng cường chính sách thương mại và đầu tư trong lĩnh vực môi trường

Tăng cường chính sách, pháp luật phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam

Tăng cường chính sách, pháp luật phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam
Tại Hội thảo góp ý Dự thảo Khung chính sách, pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường (DVMT) ở Việt Nam, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Nguyễn Thế Đồng cho biết Đảng và nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp cho các hoạt động bảo vệ môi trường nói chung và DVMT nói riêng.
​Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho thị trường DVMT phát triển như các quy định về đánh giá tác động môi trường, kiểm soát ô nhiễm, xử lý nước thải, quản lý chất thải rắn, chất thải nguy hại, kế hoạch xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,… Tuy nhiên, các chính sách hiện nay chưa có tính hệ thống; các chính sách cụ thể chưa đầy đủ, chưa tận dụng hết các công cụ quản lý, hỗ trợ của nhà nước;… nhằm đạt được mục tiêu phát triển dịch vụ môi trường.
Phó Tổng cục trưởng cho rằng xây dựng Khung chính sách, pháp luật về phát triển DVMT ở Việt Nam là hết sức cần thiết nhằm phát triển DVMT để cung ứng dịch vụ bảo vệ môi trường cho các ngành, lĩnh vực, địa phương; tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế, tạo thêm việc làm và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
Theo ThS. Vũ Đình Nam – Phó trưởng phòng Tổng hợp, Văn phòng Tổng cục Môi trường, hiện có 3.769 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ môi trường do địa phương cấp phép, hoạt động tại 46 tỉnh, thành phố và 96 doanh nghiệp do Bộ TN&MT cấp phép (là các doanh nghiệp hoạt động liên vùng, liên tỉnh, hoạt động, chủ yếu trong lĩnh vực thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại).
Tại hội thảo, các chuyên gia, các nhà khoa học đã tập trung thảo luận về nội dung dự thảo Khung. Các đại biểu đều thống nhất cần phân loại các DVMT với các tiêu chí rõ ràng, nên phân nhóm DVMT thành các nhóm lớn, không nên phân nhóm quá chi tiết.
Phát biểu tại Hội thảo, Chánh Văn phòng Tổng cục Hoàng Văn Thức thay mặt tổ soạn thảo tiếp thu các ý kiến góp ý của các đại biểu. Theo đó, tổ soạn thảo sẽ tiếp tục hoàn thiện Dự thảo Khung chính sách, pháp luật về phát triển DVMT ở Việt Nam sớm trình Thủ tướng ban hành.
Một số hình ảnh tại Hội thảo:
Tăng cường chính sách, pháp luật phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam
Tăng cường chính sách, pháp luật phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam
Tăng cường chính sách, pháp luật phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam
Tăng cường chính sách, pháp luật phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam
Linh Hương (VEA)