Sản xuất sạch hơn: Giải pháp tiết kiệm chi phí và bảo vệ môi trường cho các doanh nghiệp
Ứng dụng công nghệ môi trường trong quân đội
Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ môi trường trong quân đội có nhiều kết quả khả quan. 5 năm gần đây, các cơ quan, đơn vị đã triển khai hiệu quả gần 170 công trình, giải pháp công nghệ xử lí ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường. Ứng dụng công nghệ sạch, tập trung xử lí triệt để các loại chất thải nguy hại, xóa các “điểm nóng” về môi trường sẽ tiếp tục được chú trọng, ưu tiên trong thời gian tới.
Đa dạng hóa công trình, giải pháp công nghệ
Hệ thống xử lí nước sạch tại Đoàn B25 (Binh đoàn Hương Giang). Ảnh: ANH TUẤN.
Công nghiệp quốc phòng (CNQP) là ngành công nghiệp đặc thù, phát thải nhiều loại chất thải độc hại, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Theo Đại tá Nguyễn Thanh Tùng, Trưởng phòng Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KH, CN và MT), Cục Quản lí công nghệ (Tổng cục CNQP), thời gian qua công tác bảo vệ môi trường luôn được lãnh đạo, chỉ huy tổng cục và các đơn vị trực thuộc quan tâm. Cùng với nâng cấp, củng cố hệ thống xử lí chất thải hiện có tại gần 10 nhà máy, tổng cục đã triển khai xong dự án tổng thể xử lí chất thải công nghiệp tại Nhà máy Z27. Việc ứng dụng công nghệ môi trường để xử lí các chất thải độc hại trong sản xuất thuốc phóng, thuốc nổ bước đầu đạt được kết quả tích cực. Đến nay, đã có 3 dự án bảo vệ môi trường bao gồm hệ thống xử lí nước thải TNT, xử lí nước thải trong sản xuất thuốc nổ công nghiệp, xử lí khí thải, chất thải mạ… được triển khai hiệu quả tại các Nhà máy Z15, Z31, Z17. Tổng cục CNQP cũng tích cực chỉ đạo Nhà máy Z95 hoàn thành dự án xử lí ô nhiễm môi trường, báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt, triển khai thực hiện trong năm 2010…
Đại tá, tiến sĩ Trần Ngọc Tâm, Trưởng phòng Quản lí môi trường, Cục KH, CN và MT (Bộ Quốc phòng) cho biết:
– Giai đoạn 2005-2009, toàn quân đã triển khai 164 công trình, giải pháp công nghệ xử lí môi trường, tập trung vào các lĩnh vực: Xử lí chất thải trong bảo đảm kĩ thuật và sản xuất quốc phòng; xử lí nguồn cấp nước sinh hoạt bị ô nhiễm; xử lí chất thải bệnh viện, chất thải sinh hoạt… Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ môi trường của quân đội thời gian qua được mở rộng, đi vào chiều sâu, bám sát thực tiễn hoạt động quân sự, thiết thực góp phần bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng huấn luyện, SSCĐ, bảo đảm đời sống, sức khỏe của bộ đội… 5 năm gần đây, gần 50 đơn vị đã được xử lí nước thải, khí thải, chất thải rắn trong sản xuất quốc phòng; 56 đơn vị được xử lí nước sinh hoạt; gần 40 đơn vị đã áp dụng công nghệ sinh học trong xử lí chất thải sinh hoạt và sử dụng năng lượng mặt trời.
Xóa “điểm nóng”, chú trọng cải thiện môi trường
Tuy đạt được nhiều kết quả tích cực nhưng hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ môi trường trong quân đội thời gian qua vẫn còn không ít hạn chế, bất cập.
Theo Thượng tá Đoàn Minh Định, Trưởng phòng KH, CN và MT Tổng cục Kỹ thuật: Một trong những bất cập lớn trong ứng dụng công nghệ môi trường mà một số đơn vị trực thuộc tổng cục gặp phải là việc đầu tư xây dựng hệ thống xử lí chất thải chưa đồng bộ. Có cơ sở chỉ được đầu tư xây dựng hệ thống xử lí chất thải rắn mà chưa xây dựng hệ thống xử lí khí thải, chất thải lỏng và ngược lại… Theo đánh giá của cơ quan chức năng, số lượng các công nghệ phục vụ cải thiện môi trường tại các đơn vị còn ít, nguồn kinh phí để duy trì hệ thống xử lí chất thải hoạt động còn khó khăn. Dây chuyền, công nghệ sản xuất, sửa chữa ở một số đơn vị còn lạc hậu; nhiều cơ quan, đơn vị chưa bảo đảm hài hòa giữa đầu tư thực hiện nhiệm vụ chính trị với nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Việc áp dụng công nghệ sạch còn hạn chế, phần lớn công nghệ xử lí môi trường hiện đang áp dụng là công nghệ “xử lí sau đường ống”, chất lượng, hiệu quả chưa cao.
Thời gian tới, theo định hướng của Cục KH, CN và MT, một trong những nhiệm vụ ưu tiên là nghiên cứu, ứng dụng công nghệ môi trường, xử lí nước sạch cho bộ đội, xử lí chất thải y tế tại các bệnh viện quân y, chất thải sinh hoạt trong các đơn vị quân đội; mở rộng hợp tác trong và ngoài nước để tiếp thu kinh nghiệm, công nghệ mới… Ưu tiên hoàn thiện, ứng dụng công nghệ mới xử lí triệt để các loại chất thải công nghiệp, chất thải nguy hại; đẩy mạnh áp dụng công nghệ sạch, nhằm giảm thiểu ô nhiễm, sớm xóa bỏ các “điểm nóng” về môi trường tại các cơ sở sản xuất quốc phòng, cơ sở đảm bảo kĩ thuật.
Tại hội thảo khoa học về kết quả ứng dụng công nghệ môi trường trong quân đội tổ chức mới đây, nhiều ý kiến đề xuất cần có những quy định bắt buộc đưa nội dung, phương án bảo vệ môi trường vào các dự án đầu tư, mở rộng sản xuất; lựa chọn, đầu tư công nghệ sạch một cách đồng bộ; chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ về công nghệ môi trường. Mặt khác, cần nghiên cứu ban hành cơ chế tài chính hợp lí, như quy định hỗ trợ kinh phí ứng dụng công nghệ môi trường cho các đơn vị, có thể cho phép sử dụng kinh phí hoạt động thường xuyên của đơn vị để bảo đảm duy trì, bảo dưỡng, vận hành các công trình xử lí ô nhiễm, cải thiện điều kiện môi trường…
NGUYỄN TRUNG KIÊN
Để giảm thiểu ô nhiễm và phát triển bền vững tại các làng nghề truyền thống, áp dụng sản xuất sạch hơn được xem là một trong những giải pháp mang tính đột phá.
Không thể phủ nhận được những hiệu quả của hoạt động sản xuất công nghiệp nông thôn khi tạo ra một lượng việc làm lớn cho lao động nông thôn, đóng góp cho ngân sách Nhà nước cũng như thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, tuy nhiên, vấn đề tồn tại lớn nhất của hình thức sản xuất này chính là tình trạng ô nhiễm môi trường. Theo thống kê của Bộ TN&MT, hiện nay trên cả nước có khoảng 4.575 làng nghề, trong đó có hơn 1.300 làng nghề truyền thống, giải quyết việc làm cho 11 triệu lao động nông thôn. Song thực tế khá phổ biến tình trạng làng nghề vi phạm pháp luật về môi trường.
Đơn cử như Hà Nội là nơi tập trung đông đảo các làng nghề truyền thống. Làng nghề thủ công ở Hà Nội có rất nhiều nguồn gốc khác nhau, những làng nghề có sẵn chiếm phần nhỏ trong tổng số làng nghề đa phần đều được di dời từ nơi khác về… Mệnh danh là “đất trăm nghề”, tình trạng ô nhiễm môi trường ở Hà Nội nhiều năm qua đã trở thành một trong những vấn đề nổi cộm. Với 272 làng nghề, không khí tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm thường bị ô nhiễm do đốt nhiên liệu, do sự phân hủy yếm khí các chất hữu cơ có trong nước thải, chất thải rắn như CO2, NH3, CH4. Không khí tại các làng nghề mây tre đan, làm nón, tăm hương… bị ô nhiễm do khâu sấy chống mốc dùng diêm sinh gây phát sinh một lượng lớn khí SO2. Không khí tại các làng nghề dệt nhuộm bị ô nhiễm do bụi bông, bụi than, hơi hóa chất, xút thải…
Không những gây ảnh hưởng đến môi trường, ô nhiễm làng nghề còn khiến cho tỷ lệ mắc bệnh tại các làng nghề có xu hướng tăng cao, đặc biệt là các nhóm người trong độ tuổi lao động.
Thống kê của Sở Công Thương Hà Nội, hiện 70% số thiết bị được sử dụng tại các làng nghề là máy móc, trang thiết bị đơn giản. Số máy móc hiện đại chỉ tập trung tại một số làng với những ngành nghề như dệt, may, gốm sứ. Bên cạnh đó, hệ thống xử lý nước thải tại các khu vực làng nghề nhìn chung vẫn chưa được quan tâm đầu tư xây dựng. Do vậy, ô nhiễm môi trường làng nghề đang trở thành tình trạng chung, là vấn đề nổi cộm của hầu hết các làng nghề ngoại thành Hà Nội và ngày càng có nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến môi trường sống cũng như phát triển sản xuất.
Theo Trung tâm Tiết kiệm năng lượng Hà Nội, ô nhiễm môi trường tại các làng nghề hoàn toàn có thể khắc phục được nếu áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn. Ứng dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn nhằm giảm ô nhiễm và tăng hiệu quả kinh tế tại các khu vực làng nghề là một trong những trọng tâm của hoạt động sản xuất sạch hơn đang được triển khai trên địa bàn.
Điển hình như làng gốm Bát Tràng, trước đây, mỗi ngày, làng nghề tiêu thụ khoảng 800 tấn than và thải vào môi trường các loại khí độc hại: CO, SO2, H2S, bụi silic, chất thải rắn… Để giải quyết bài toán phát triển bền vững, các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất làng nghề Bát Tràng đã tích cực tham gia chuyển đổi công nghệ sản xuất. 6 năm trước đây, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Quỹ Môi trường toàn cầu của UNDP triển khai dự án “Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” tại làng nghề. Dự án đã giúp các doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ nung gốm từ các lò than, lò gas truyền thống sang lò gas hiện đại.
Đến thời điểm này, Bát Tràng đã có trên 400 hộ sử dụng lò nung gốm bằng khí gas hóa lỏng, góp phần làm giảm phần lớn lượng phế phẩm so với lò than và hạn chế ô nhiễm ra môi trường xung quanh. Thành công của dự án này ở làng nghề Bát Tràng đã có sức lan tỏa rất lớn. Các doanh nghiệp tham gia dự án thành công với việc chuyển đổi sang mô hình tiết kiệm năng lượng đã khích lệ doanh nghiệp và các hộ sản xuất khác trong làng nghề học tập và làm theo. Đến nay, cả làng nghề Bát Tràng đã có 131 doanh nghiệp và hộ sản xuất áp dụng công nghệ lò gas cải tiến. Đặc biệt, nhờ có hơn 90% các hộ sản xuất gốm sứ chuyển sang sử dụng công nghệ lò gas cải tiến đã giúp giảm tiêu hao năng lượng, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường của công nghệ sản xuất trước kia, giải quyết việc làm cho khoảng 4.000 lao động. Doanh thu của xã Bát Tràng hiện nay đạt 400 tỷ đồng/năm, bình quân 22 triệu đồng/người, lợi nhuận tăng gấp 2-3 lần so với công nghệ cũ.
Một số doanh nghiệp mây tre đan ở làng nghề Phú Vinh (xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ) đã áp dụng sản xuất sạch hơn, đem lại nhiều lợi ích từ kinh tế đến môi trường. Khi chưa áp dụng sản xuất sạch hơn, doanh nghiệp bị hao hụt tới 10% mây tươi ở khâu luộc, tẩm, thu mua. Hóa chất tổn thất nhiều do hệ thống luộc và tẩm mây làm bằng xi măng không có gia nhiệt; cũng ở khâu này, thêm 10% nguyên liệu tiếp tục bị hao hụt. Khi thực hiện sản xuất sạch hơn, kết quả mang lại rất khả quan, lượng nguyên liệu hao hụt giảm mạnh mà doanh nghiệp không mất nhiều chi phí, đặc biệt, giảm phát thải ra môi trường.
(tainguyenmoitruong.com.vn)
Green Credit Trust Fund (GCTF – Quỹ ủy thác tín dụng xanh) được thành lập từ sáng kiến của Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO) với mục đích thúc đẩy các dự án đầu tư trung và dài hạn trong đổi mới thiết bị, công nghệ theo hướng thân thiện môi trường thông qua việc hỗ trợ tài chính cho các DN vừa và nhỏ. Mới đây, tại TP.HCM, GCTF đã giới thiệu các điều kiện cụ thể trong bảo lãnh tín dụng cho DN Việt Nam.
Bà Nguyễn Lệ Hằng, điều phối viên GCTF tại Việt Nam cho biết, GCTF sẽ bảo lãnh đến 50% tổng giá trị khoản vay từ ngân hàng cho DN (khi DN cần vay để đổi mới dây chuyền, thiết bị sản xuất sạch hơn, cải thiện môi trường…) và thưởng đến 25% tổng giá trị khoản vay khi dự án đạt trên 50% mức độ cải thiện môi trường, thưởng 15% khi đạt trên 30% mức độ cải thiện môi trường. Mức thưởng tối đa một dự án là 200 ngàn USD. Thời gian GCTF cho vay một dự án kéo dài từ 2-3 năm và có thể hỗ trợ bảo đảm tín dụng từ 10 ngàn USD đến 1 triệu USD cho một dự án. Tuy nhiên, GCTF không can thiệp vào chính sách lãi suất của các ngân hàng và lãi suất này do DN thỏa thuận với ngân hàng.
Triển khai tại Việt Nam, GCTF có 4 phía tham gia là các ngân hàng thương mại Việt Nam (ACB, Techcombank, VIBank), Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam (VNCPC), Trung tâm tham vấn tại Thuỵ Sĩ và Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ. Ba ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ đánh giá DN về hiện trạng tài chính, đàm phán, thiết lập điều kiện vay (lãi suất, thời hạn vay, các điều khoản…), giải ngân và thu hồi vốn vay, khai thác khách hàng mới. Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam sẽ thẩm định dự án của DN về mặt kỹ thuật để xác định tính khả thi của dự án, tư vấn cho ngân hàng về tài chính của công nghệ sản xuất sạch hơn trong dự án và các vấn đề tác động đến môi trường, kiểm tra, đánh giá hiệu quả của dự án để xác định mức trả thưởng. Trung tâm tham vấn tại Thuỵ Sĩ sẽ tư vấn cho VNCPC về kỹ thuật đối với các dự án có giá trị tín dụng trên 100 ngàn USD. Cục Kinh tế Liên bang Thuỵ Sĩ phát hành thư tín dụng, chuyển tiền cho 3 ngân hàng Việt Nam thông qua RBC (Royal Bank of Canada).
Tại Việt Nam, GCTF tập trung vào hỗ trợ các DN vừa và nhỏ có vốn điều lệ dưới 5 triệu USD và số nhân viên dưới 1 ngàn người. Nhưng GCTF vẫn hỗ trợ đối với các công ty lớn, đang dẫn đầu trong một lĩnh vực có nhiều DN tương tự quy mô nhỏ hơn đang hoạt động, để có thể nhân rộng mô hình cải thiện môi trường sau khi thành công.
Theo bà Hằng, muốn tham dự vào GCTF, DN phải có ít nhất 51% quyền sở hữu trong nước, DN không phải là một phần của một công ty đa quốc gia, DN đang hoạt động (không là DN mới) và có dự án đề xuất thay đổi công nghệ mới, đầu tư mới thiết bị – máy móc hoặc thiết bị – máy móc second-hand nhưng sẽ mang lại hiệu quả về môi trường. Một DN có thể đăng ký nhiều dự án nhưng tổng trả thưởng sẽ không vượt quá 500 ngàn USD/DN. DN phải cho GCTF sử dụng kết quả, công bố trong giới hạn bảo mật thông thường, để quảng bá đến nhiều DN khác sau khi dự án thành công.
Theo đó, sẽ có rất nhiều DN trong ngành công nghiệp tại Việt Nam nằm trong mục tiêu hỗ trợ của GCTF. Các ngành như sản xuất vật liệu xây dựng (gạch, xi măng…), sản xuất thủy tinh (thay lò nấu thủy tinh …), ngành nhựa (thay máy ép thế hệ mới…), ngành dệt nhuộm (thay máy nhuộm, lò hơi…), ngành chế biến thực phẩm, sản xuất thép, luyện kim, thuộc da, sản xuất hóa chất, sơn, pin, ắc quy… Ngoài ra, các lĩnh vực khác như nhà hàng, dịch vụ ăn uống, khách sạn, trung tâm hội nghị, trung tâm thương mại, khu vui chơi – giải trí, toà nhà văn phòng… cũng có thể tham gia vào GCTF nếu có các dự án liên quan đến tiết kiệm nhiên liệu, năng lượng và bảo vệ môi trường…
Được biết đã có một số DN Việt Nam được GCTF thẩm định dự án và hỗ trợ như Công ty TNHH thép Việt – Pháp với dự án thay thế 4 lò trung tấn và máy đúc phôi liên tục bằng những thiết bị hiệu quả hơn nhằm giảm tiêu thụ điện năng và tuần hoàn nước làm mát (giải ngân thông qua Techcombak), Công ty Cổ phần nhựa Tân Phú với dự án đổi mới thiết bị và công nghệ sản xuất thùng 5 gallon, vỏ ắc quy N150, đây là dự án thứ hai của công ty được GCTF hỗ trợ (giải ngân thông qua Ngân hàng ACB)…
Một số dự án khác đang được phê duyệt về mặt kỹ thuật và trong quá trình thương lượng với ngân hàng như dự án của Công ty Cổ phần PLATO Việt Nam về việc thay thế dây chuyền mạ điện Ni-Cr thủ công bằng dây chuyền bán tự động với hệ thống mạ thu hồi dòng chảy ngược thiết kế hợp lý, dự án của Công ty Cổ phần giấy Đông Nam về việc thay thế dây chuyền sản xuất giấy Kraft giảm tiêu thụ điện năng và tăng năng suất, dự án của HTX Hồng Tiến về việc thay thế lò nung lạc hậu bằng lò nung công nghệ mới thẳng đứng nhằm giảm phát thải khí CO2…
Ngoài ra, còn có một số dự án đang trong giai đoạn chuẩn bị như dự án thay thế buồng đốt lạc hậu bằng thiết bị mới sử dụng năng lượng mặt trời và thay lò sấy củ bằng lò tầng sôi của Công ty Cổ phần chè Văn Hưng, dự án thay thế thiết bị đúc nhựa của Công ty TNHH nhựa Hữu Tín…
Phùng Long
Là môi trường ổn định về khí hậu mà theo mình thì nó nên là mùa thu vì đó là mùa sống rất dễ chịu hơn nữa bạn biết đấy mỗi khi chuyển mùa trẻ con và người già khổ lắm, tiếp đó phải là một môi trường có thể sạch sẽ hết mức có thể và sự sạch sẽ này phải toàn thể chứ không phải cục bộ để mọi người ai cũng có thể tận hưởng nó không mất tiền, môi trường xanh là môi trường có thể gợi cho con người ta hướng về thiên nhiên,làm cho con người yêu thích thiên nhiên và cảm thấy sự nghỉ ngơi ,bình yên và vĩ đại mỗi khi được gần nó.bên tây người ta làm rất tốt cái này(những con đường trồng đầy cây cối, những hồ nước rộng và trong trong một thành phố,những cánh đồng mà sự đẹp đẽ của nó mình không thể tả hết bằng lời được…)
cuộc sống xanh theo mình quan niệm thì đơn giản thôi , đó là cuộc sống con người biết trân trọng ,ý thức được vai trò của mình với thiên nhiên và ngược lại,là cuộc sống con người hòa cùng thiên nhiên ,sống cùng thiên nhiên trong sự vui vẻ và hãy biết xây dựng cuộc sống đó sao cho nó thật đẹp không bị những tác động của công việc,toan tính vật chất làm ảnh hưởng.có vẻ đơn giản và buồn ngủ quá phải không?
Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển nền Kinh tế Xanh mà không phải quốc gia nào cũng có được
Năm 2012, Liên Hợp Quốc lấy chủ đề cho Ngày Môi trường Thế giới là “Kinh tế Xanh: Có vai trò của bạn”. Việc chọn chủ đề này nhằm phản ánh nhận thức sâu rộng đối với Kinh tế Xanh như là bước đi tiếp theo hướng tới thế kỷ XXI bền vững.
Quan trọng hơn, khi mà các quốc gia trên thế giới đang vực dậy sau khủng hoảng kinh tế, chủ đề này nhấn mạnh sự cần thiết rằng, nền Kinh tế Xanh không chỉ mang ý nghĩa bao quát mà còn mang lại những kết quả tích cực cho sự phát triển kinh tế, công bằng xã hội và sự tiến bộ trong quản lý môi trường.
Theo Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP), Kinh tế Xanh là nền kinh tế nâng cao đời sống, tạo việc làm và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm đáng kể những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái. Trong nền Kinh tế Xanh, sự tăng trưởng kinh tế phải gắn với giảm phát thải carbon, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên, ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái.
Thực tế, kể từ khi thuật ngữ “Kinh tế Xanh” được công nhận năm 2008 thì chỉ 1 năm sau, theo tính toán của UNEP, cộng đồng EU và Mỹ đã tạo ra 2 – 3,5 triệu việc làm khi xây dựng các tòa nhà xanh, Trung Quốc tạo nên 10 triệu việc làm trong lĩnh vực tái chế và năng lượng tái tạo với doanh thu 17 tỷ USD/năm. Và Brazil – quốc gia Nam Mỹ đi đầu trong việc xây dựng một nền Kinh tế Xanh có ngành công nghiệp tái chế với nguồn thu 2 tỷ USD/năm, đồng thời giảm 10 triệu tấn khí nhà kính thải ra môi trường.
Đấy là tại những nước và khu vực phát triển, còn ở nhóm nước đang phát triển, theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, nhu cầu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Kinh tế Xanh như xây dựng, năng lượng, vận tải có thể lên tới 563 tỷ USD vào năm 2030 cùng với 100 tỷ USD để thích nghi với biến đổi khí hậu.
Những thống kê này cho thấy, “gieo mầm” Kinh tế Xanh, tạo nên tăng trưởng xanh là chiến lược cho phát triển bền vững ở tương lai.
Bên cạnh đó, thực tiễn tại các nước cũng cho thấy rằng, việc thúc đẩy tăng trưởng xanh hay quá trình chuyển đổi sang nền Kinh tế Xanh tạo ra tiềm năng lớn để đạt được phát triển bền vững và giảm nghèo đói với tốc độ chưa từng thấy. Riêng đối với các nước đang phát triển, tăng trưởng xanh còn tạo đà cho một bước nhảy vọt để phát triển kinh tế mà không theo con đường phát triển kinh tế “Ô nhiễm trước, xử lý sau”.
So với nhiều nước trên thế giới, Việt Nam hội tụ nhiều lợi thế để phát triển Kinh tế Xanh. Việt Nam có vị trí địa lý nằm trung tâm châu Á, một châu lục được đánh giá là đang và sẽ phát triển năng động nhất thế giới. Chúng ta được thiên nhiên ưu đãi, nền nông nghiệp phát triển với nhiều sản phẩm đứng trong Top 5 thế giới. Việt Nam có nền chính trị ổn định, xã hội thân thiện, thuần nhất và người dân ôn hòa. Đây là những lợi thế mà không phải quốc gia nào cũng có được.
Tuy nhiên, để hướng tới sự phát triển này, Việt Nam phải khắc phục những hạn chế về trình độ phát triển, công nghệ sản xuất, trình độ phát triển khoa học cũng như thể chế pháp luật… Bên cạnh đó, nhận thức và năng lực của toàn hệ thống (con người, cơ sở hạ tầng, tài chính và thể chế) cũng cần thay đổi nhằm xóa bỏ thói quen cũ trong sản xuất và quản lý.
Theo các chuyên gia, đứng trước thời cơ mới, Việt Nam cần phát huy các lợi thế so sánh, khắc phục các yếu kém để phát triển đất nước. Phương thức tăng trưởng xanh là con đường tốt nhất để giúp Việt Nam thu hẹp khoảng cách phát triển trong thời gian tương đối ngắn, nhờ sử dụng hiệu quả nội lực và toàn cầu hóa.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: Mục tiêu hướng tới chất lượng tăng trưởng của Việt Nam sẽ tập trung phát triển những ngành có lợi thế cạnh tranh, có sử dụng công nghệ cao để từng bước nâng cao sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế.
Điều này thể hiện trong Dự thảo chiến lược Tăng trưởng xanh giai đoạn 2011 – 2020 tầm nhìn đến năm 2050 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư soản thảo. Chiến lược nêu rõ “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực tiễn tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ vài cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu”.
Như vậy, tăng trưởng xanh là phù hợp với chiến lược dài hạn của Việt Nam và định hướng phát triển bền vững nói chung, phù hợp với những lợi thế so sánh mà Việt Nam cần phát huy trong thế giới toàn cầu hóa.
Những Bài Liên Quan: Quy Dau Tu – San Xuat Sach – Moi Truong Xanh – Vay Tien
Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ (Sở Khoa học và Công nghệ An Giang) vừa thực hiện thành công dự án “Tập huấn kỹ thuật và hướng dẫn thực hành sản xuất sạch hơn (SXSH) tại nhà máy”. Tổng kinh phí thực hiện hơn 108 triệu đồng, trong đó ngân sách sự nghiệp khoa học công nghệ hỗ trợ 63,14 triệu đồng.
Dự án do Phó Giám đốc Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ Trương Kiến Thọ làm chủ nhiệm, Thạc sĩ Vũ Bá Minh-Trường đại học Bách khoa TP.HCM phối hợp thực hiện. Có 3 nhà máy đông lạnh thủy sản tham gia thực hiện thử nghiệm đánh giá sản xuất sạch hơn (SXSH) là: Việt An, An Xuyên (TP.Long Xuyên), Thuận An 3 (Châu Thành). Mục tiêu dự án nhằm phổ biến kiến thức và thực hiện SXSH, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh; áp dụng đánh giá SXSH cho 3 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh với mức tiết kiệm trên 10% chi phí năng lượng, nước…
Phó Giám đốc Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ Trương Kiến Thọ cho biết, trung tâm đã tổ chức được 2 lớp tập huấn cho các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân vận hành thiết bị nhằm nâng cao nhận thức về phát triển công nghiệp và sử dụng tài nguyên, chi phí cho dòng thải và lãng phí trong sản xuất, thực hiện SXSH, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng. Qua tập huấn, đã triển khai thực hành SXSH tại 2 nhà máy chế biến thủy sản, hướng dẫn nhà máy xây dựng các báo cáo đánh giá SXSH.
Qua đó đề xuất các giải pháp giảm tiêu hao tài nguyên, sử dụng năng lượng hiệu quả và tiết kiệm. Tại Nhà máy đông lạnh thủy sản Việt An, công ty có 2 phân xưởng chế biến thủy sản đông lạnh: Việt Thắng và An Thịnh, 1 bộ phận phụ trợ là 2 khu xử lý nước thải. Nhà máy sử dụng lượng điện 21 triệu kWh/năm, nước 200 ngàn m3/năm, tiêu thụ 99 ngàn lít dầu DO/năm (năm 2010). Có 33 giải pháp SXSH được nhận dạng, trong đó có 10 giải pháp tiết kiệm năng lượng. Qua đó cho thấy, tiềm năng giúp nhà máy tiết kiệm khoảng 100m3 nước/tháng, 25 ngàn kWh điện/tháng. Tại Nhà máy Thuận An 3 có phân xưởng chế biến thủy sản đông lạnh, phân xưởng chế biến phụ phẩm và phân xưởng chế biến thực phẩm, 2 bộ phận phụ trợ là nồi hơi và khu xử lý nước thải. Lượng điện nhà máy sử dụng trên 4,7 triệu kWh, 123 ngàn m3 nước (năm 2010). Có 46 giải pháp SXSH được nhận dạng, trong đó có 11 giải pháp tiết kiệm năng lượng, tiềm năng tiết kiệm từ 70-90m3 nước/tháng và 15 ngàn kwh điện/tháng.
Hiện nay, một số giải pháp SXSH ít chi phí đã được nhà máy thực hiện đem lại hiệu quả cao, như: Lắp đặt đồng hồ điện, nước tại các đầu vào; thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở công nhân về ý thức rò rỉ, lãng phí; sử dụng đèn chiếu sáng; dùng vòi rửa có đường kính nhỏ, dùng bơm cao áp và nước nóng xịt rửa vệ sinh, tách nước thải ô nhiễm. Song song đó, ban giám đốc các nhà máy dự kiến từ năm 2013 sẽ đầu tư thực hiện các giải pháp: Lắp đặt biến tần cho bơm nước, quạt; sử dụng nước nóng từ năng lượng mặt trời…
Việc thực hiện các giải pháp SXSH vừa giúp tiết kiệm cho các nhà máy hàng trăm triệu đồng/năm vừa giảm thiểu nguồn gây ô nhiễm môi trường. Dự án sau khi kết thúc còn giúp nâng cao nhận thức các doanh nghiệp trong tỉnh về SXSH. Trên cơ sở các giải pháp SXSH, các doanh nghiệp tiến hành đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ với sự hỗ trợ Sở Khoa học và Công nghệ, thúc đẩy hoạt động SXSH, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm chi phí sản xuất và tăng khả năng cạnh tranh. Dự án còn mang ý nghĩa xã hội và lợi ích môi trường, tạo hình ảnh nhà máy thân thiện môi trường, góp phần giảm phụ tải điện lưới, giảm sử dụng tài nguyên nước, điện, dầu, góp phần giảm phát thải khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính.
Những Bài Liên Quan: Quy Dau Tu – San Xuat Sach – Moi Truong Xanh – Vay Tien
ThienNhien.Net – Phát triển bền vững bằng những công nghệ thân thiện với môi trường, đầu tư công nghệ mới, sử dụng năng lượng hợp lý… là những giải pháp quan trọng cần được hỗ trợ đầu tư mạnh mẽ, để đối phó với tình trạng suy thoái môi trường đang diễn ra ngày càng phức tạp. Việc Quỹ Ủy thác tín dụng xanh (Green Credit Trust Fund – GCTF) ra đời sẽ góp phần thúc đẩy các giải pháp này – bà Nguyễn Lê Hằng, điều phối viên GCTF tại Việt Nam, chia sẻ.
– Xin bà cho biết Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh có mặt tại Việt Nam khi nào?
Bà Nguyễn Lê Hằng: Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh (GCTF) được thành lập từ một sáng kiến hỗ trợ tài chính của Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO) dành cho các nước đang phát triển, nhằm thúc đẩy đầu tư trung và dài hạn vào công nghệ sạch hơn trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Mô hình này đã được SECO triển khai trước đó ở Colombia và Peru (thuộc nhóm quốc gia mục tiêu của chương trình hỗ trợ mà SECO dành cho các nước đang phát triển). Từ kinh nghiệm triển khai tại hai quốc gia này và qua khảo sát đặc điểm, hiện trạng hoạt động của ngành ngân hàng cũng như các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ, cuối năm 2007, SECO đã chính thức cho ra mắt Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh tại Việt Nam thông qua sự điều phối của Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam(VNCPC).
– Liệu đây có phải là một hình thức tín dụng mới ở Việt Nam và có nhận được sự tham gia của các tổ chức tài chính trong nước?
Bà Nguyễn Lê Hằng: Cơ chế hoạt động của GCTF khá khác biệt so với các quỹ hỗ trợ về môi trường khác ở Việt Nam. Nguồn ngân sách của GCTF do SECO cung cấp (5 triệu USD) chỉ bao gồm 2 mục tiêu: hỗ trợ thế chấp thông qua bảo lãnh (2 triệu USD) và trả thưởng cho dự án hoàn thành (3 triệu USD).
Trong khi đó, điểm chung của hầu hết các quỹ khác là “có một nguồn vốn hoạt động riêng” được huy động từ nhiều nguồn khác nhau (như ngân sách nhà nước, nguồn vay tín dụng từ ngân hàng lớn, đối ứng của ban quản lý hay ban điều hành Quỹ, khoản hỗ trợ không hoàn lại từ các dự án, chương trình hợp tác phát triển do nước ngoài tài trợ, …) và do Ban quản lý quỹ điều hành.
Về cơ chế hỗ trợ tài chính, GCTF hỗ trợ bảo lãnh và trả thưởng sau khi dự án được thực hiện thành công, trong khi các quỹ khác cung cấp vốn vay với lãi suất ưu đãi. Nguồn tín dụng cấp cho các dự án GCTF là từ các dòng ngân sách dành cho tín dụng khối khách hàng doanh nghiệp của ba ngân hàng thương mại được VNCPC lựa chọn làm đối tác gồm ACB, Techcombank, và VIB.
– Xin hỏi, tại sao lại là tín dụng XANH?
Bà Nguyễn Lê Hằng: “Xanh” ở đây mang hàm ý về môi trường. Tác động môi trường mà GCTF quan tâm bao gồm: phát thải CO2 (thông qua giảm tiêu thụ nhiên liệu và điện năng), phát thải ODS, PTS, giảm sử dung nước sạch, BOD, COD, TOC, bụi ngoài trời PM10, … Tính chất “xanh” còn thể hiện ở tiêu chí lựa chọn dự án. Dự án thay đổi thiết bị hay công nghệ phải hướng tới việc giảm một chỉ thị tác động xấu đến môi trường ít nhất 30% so với hiện trạng hoặc nếu là trường hợp đầu tư một dây chuyền sản xuất mới thì công nghệ được lập dự án phải thể hiện tính ưu việt về bảo vệ môi trường so với một dự án đầu tư sản xuất thông thường. Bên cạnh đó, GCTF khích lệ doanh nghiệp đầu tư để cải thiện môi trường đạt mức cao hơn so với mức cơ bản đươc pháp luật quy đinh.
Một số dự án đã được thực hiện trong khuôn khổ của Quỹ đã giúp các công ty ứng dụng công nghệ tiến tiến để giảm điện năng tiêu thụ hoặc giảm lượng nước sạch phải khai thác cho sản xuất và lượng phát thải CO2 do tận dụng được năng lượng tái tạo (sinh khối, mặt trời).
– Xin bà cho biết những đối tượng nào sẽ được Quỹ ưu tiên?
Bà Nguyễn Lê Hằng: Nhóm đối tượng mục tiêu của Quỹ, xét về quy mô, là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam có vốn điều lệ dưới 5 triệu USD (trong đó vốn trong nước chiếm ít nhất 51%) và số lượng công nhân viên dưới 1.000 người. Còn với tiêu chí ngành nghề, nhóm mục tiêu bao gồm tất cả các doanh nghiệp có sản xuất công nghiệp (bao gồm cả chế biến nông sản) và một số ngành dịch vụ.
Để tiếp cận GCTF, các DN sẽ phải đệ trình kế hoạch kinh doanh và trải qua các quy trình xét duyệt như: thông qua 3 ngân hàng để vay vốn theo quy trình thực hiện của các ngân hàng này, thông qua Trung tâm sản xuất sạch (VNCPC) xem xét, đánh giá về kỹ thuật của các dự án đầu tư, xác định hiện trạng môi trường trước khi đầu tư và đánh giá mức độ cải thiện môi trường sau khi lắp đặt công nghệ sản xuất mới và thông qua SECO để ký duyệt khi có đầy đủ kết luận của VNCPC và ngân hàng.
– Cho đến thời điểm này, đã có bao nhiêu dự án được hưởng lợi từ GCTF?
Bà Nguyễn Lê Hằng: Quỹ đã nhận được khoảng 50 hồ sơ đăng ký dự án, trong số này có 30 dự án đạt được các điều kiện sàng lọc ban đầu. Từ đó có 18 dự án đã được phê duyệt kỹ thuật và hiện tại có 7 dự án đã giải ngân và 4 dự án đã được trả thưởng. Dự án có giá trị tín dụng lớn nhất là 970.000USD và được trả thưởng ở mức 15%. Ở chiều ngược lại là dự án được giải ngân 101.942USD và được trả thưởng ở mức 25%..
Đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ theo khuôn khổ GCTF nằm trong khuôn khổ tiếp cận sản xuất sạch hơn. Áp dụng cách tiếp cận này sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được tài chính thông qua giảm lãng phí năng lượng và nguyên vật liệu; thu hồi, tái sử dụng được nhiều loại phế phẩm; cải thiện điều kiện làm việc và sức khỏe, giảm phát thải ra môi trường; cải thiện hình ảnh doanh nghiệp và mở ra cơ hội thị trường mới, đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Vì thế việc “xanh” hơn do thực hiện sản xuất sạch hơn là yếu tố quan trọng để các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững, hội nhập quốc tế, đồng thời mang lại lợi ích cho cộng đồng xung quanh.
– Xin chân thành cảm ơn bà!
Những Bài Liên Quan: Quy Dau Tu – San Xuat Sach – Moi Truong Xanh – Vay Tien
Sơn La là tỉnh có số giờ nắng cao nhất ở các tỉnh miền núi phía Tây Bắc – vùng nhiều tiềm năng về năng lượng mặt trời thứ hai ở Việt Nam. Cùng với đó là lượng sinh khối từ lõi ngô hàng năm lên đến 100.000 tấn. Đó là những nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo to lớn và quý giá có thể được tận dụng cho nhu cầu chế biến nông nghiệp như sấy sắn, ngô, long nhãn,… hoặc dùng cho các doanh nghiệp chè ở địa phương. Trong chuyến tập huấn từ ngày 8 đến 10 tháng 8 năm 2012, nhóm cán bộ của dự án SPIN thuộc Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam đã giới thiệu đến Sở Khoa học Công nghệ Sơn La và một số doanh nghiệp tại địa phương giải pháp công nghệ và tài chính để nâng cao hiệu quả sản xuất và lợi nhuận.
Công nghệ được giới thiệu là công nghệ sấy sử dụng năng lượng mặt trời kết hợp với sử dụng bếp khí hóa nhiên liệu sinh khối giúp sử dụng năng lượng tiết kiệm và giảm phát thải khí nhà kính.
Giải pháp tài chính được giới thiệu là hỗ trợ của Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh (GCTF) dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam thông qua hai hình thức bảo lãnh (50% vốn vay tín dụng tại ngân hàng) và trả thưởng (tới 25% vốn vay tín dụng).
Các công ty tham gia khóa tập huấn:
1. Cty CP Chè Cờ đỏ,
2. Cty CP Chè Chiềng ve,
3. TCT Chè Việt Nam chi nhánh Mộc Châu,
4. Công ty mía đường Mộc Châu
5. Công ty rượu Việt Pháp
6. Các phòng của Sở khoa học công nghệ Sơn La
Chuyên gia của VNCPC giới thiệu về Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh tới các đại biểu
Dự án “Đổi mới công nghệ và thiết bị sản xuất nắp chai chứa thực phẩm và vỏ bình ắc quy N25” của Công ty CP Nhựa Tân Phú (TP. Hồ Chí Minh) được thực hiện với hỗ trợ của Quỹ Ủy thác tín dụng xanh (GCTF). Nhờ đổi mới công nghệ, công ty đã tiết kiệm được chi phí, giảm tiêu hao điện năng đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực tới môi trường.
Công ty CP Nhựa Tân Phú là một doanh nghiệp nhựa hàng đầu, có uy tín trong ngành công nghiệp nhựa Việt Nam. Công ty chuyên sản xuất và kinh doanh các sản phẩm nhựa bao bì rỗng bằng nhựa PEHD, PET, các loại can, thùng rỗng, các loại két bia, nước ngọt, các loại chai nhiều lớp, vỏ bình ắc quy các loại. Công nghệ và máy móc thiết bị đang sản xuất đã qua nhiều năm sử dụng thuộc thế hệ cũ và đều sử dụng hệ thống thủy lực: Một động cơ công suất lớn sử dụng cho toàn bộ máy với nhiều chức năng khác nhau thông qua các bộ truyền động, do đó, tải của động cơ không đều nên hiệu suất của động cơ điện thấp, tiêu hao năng lượng cao. Những tác động tiêu cực đến môi trường của các máy thế hệ cũ là: Mỗi máy thải ra 400 lít dầu thủy lực/năm; Năng suất nhỏ, tiêu hao điện nhiều dẫn đến suất tiêu thụ điện lớn.
Áp dụng giải pháp SXSH tiết kiệm năng lượng, Công ty thực hiện lắp đặt bộ biến tần cho các máy đang hoạt động để giảm tiêu hao điện năng.
Trên cơ sở kết quả của chương trình SXSH và tiết kiệm năng lượng mà Công ty đã tham gia, chuyên gia của Trung tâm SXSVN và lãnh đạo Công ty đã xây dựng dự án đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện hơn với môi trường bằng thay đổi dòng máy thế hệ cũ ép thủy lực bằng ép điện. Mặt khác, hiệu suất làm việc của máy giảm dần theo thời gian làm việc vì dầu thủy lực khi hoạt động bị ma sát nóng lên nên làm giảm áp suất. Trong máy ép điện thế hệ mới, các chu kỳ hoạt động đựơc điều khiển riêng biệt bằng động cơ điện, đến chu kỳ nào thì động cơ điều khiển chu kỳ đó hoạt động, các động cơ khác không hoạt động nên công suất tiêu tốn giảm đi rất nhiều dẫn đến suất tiêu thụ điện năng/1 kg sản phẩm nhựa giảm đáng kể. Máy ép phun thủy lực sử dụng động cơ điện riêng cho từng bộ phận nên sử dụng điện không bị non tải vì khi bộ phận nào hoạt động thì động cơ của bộ phận đó khởi động. Công suất tiêu thụ thay đổi theo sự biến đổi tải. Trong giai đọan giữ áp suất, động cơ servo giảm tốc độ quay và tiêu thụ ít điện năng.
So với dòng máy ép thủy lực đang sử dụng tại hầu hết các nhà máy nhựa tại Việt Nam, máy thế hệ mới có nhiều ưu điểm vượt trội như sau: Tiết kiệm được điện năng; Tái sử dụng được 30 – 40% phế liệu nhựa; Thời gian vận hành cho một chu trình được rút ngắn do đó năng suất cao hơn; Sử dụng động cơ điện servo tiết kiệm năng lượng; Giảm lựơng nhớt thủy lực sử dụng cho hai máy ép điện.
Để đánh giá ưu điểm nổi bật này của dòng máy ép điện thế hệ mới, mỗi máy được gắn đồng hồ điện để theo dõi lượng điện năng tiêu thụ của mỗi máy.
Công ty đã đầu tư 135.363 USD để thực hiện dự án. Sau khi hệ thống thiết bị mới đi vào hoạt động ổn định, Trung tâm SXSVN đã tiến hành đánh giá và xác nhận hệ thống thiết bị mới đã giảm tiêu thụ điện năng so với hệ thống thiết bị cũ là 575.271 kWh/năm, cũng đồng nghĩa với giảm phát thải khí nhà kính tương đương 343.437 kg CO2/năm (85% mức dự tính trong dự án). Như vậy dự án đã đạt được mức trả thưởng 25% vốn vay ngân hàng để thực hiện dự án. Đây là mức thưởng cao nhất của Quỹ GCTF cho việc cải thiện môi trường.
Theo Chuyên đề Môi trường công nghiệp – Số 28/2011.
Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ trong 2 tháng đầu năm 2012, có 1.664 doanh nghiệp (DN) giải thể và 1.595 DN tạm ngừng hoạt động. Để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho DN duy trì phát triển sản xuất, kinh doanh, đảm bảo giải quyết việc làm cho người lao động Chính phủ đã có nhiều giải pháp đảm bảo tăng trưởng tín dụng hợp lý để vừa tháo gỡ khó khăn, vừa thực hiện các mục tiêu kiềm chế lạm phát; bảo đảm tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng, ổn định tỷ giá; hỗ trợ tín dụng xây dựng nhà cho các đối tượng xã hội, người có thu nhập thấp.
Nhằm khuyến khích các DNVVN của Việt Nam đầu tư thay thế các thiết bị/công nghệ cũ đang sử dụng bằng các thiết bị/công nghệ mới thân thiện với môi trường cũng như khuyến khích các ngân hàng thương mại trong việc cung cấp vốn tín dụng cho các dự án đầu tư công nghệ mang lại lợi ích về môi trường, những năm qua Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh do Thuỵ Sĩ tài trợ (Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam điều phối) đã hỗ trợ tài chính cho các DNVVN bằng cách hỗ trợ bảo lãnh (tối đa 50% giá trị tín dụng) và hoàn trả một phần (tới 25%) của vốn đầu tư dựa trên tác động môi trường được giảm nhẹ do dự án mang lại. Để hiểu rõ hơn về sự hỗ trợ này, Tạp chí Môi trường đã có cuộc trao đổi với Ms. Nguyễn Lê Hằng, Điều phối viên Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh.
PV: Xin cho biết, vai trò của Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh đối với các DN vừa và nhỏ ?
Ms. Hằng: Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh (gọi tắt là GCTF) được thành lập từ một sáng kiến hỗ trợ tài chính của Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO) dành cho các nước đang phát triển, nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư trung và dài han vào công nghệ sạch hơn trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Đối tượng hỗ trợ tài chínhcủa GCTF là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) của Việt Nam. Những doanh nghiệp này thường hay gặp phải những trở ngại như: thiếu vốn, khó tiếp cận với nguồn tín dụng từ ngân hàng do không đủ tài sản thế chấp, … khi đứng trước những hạng mục đầu tư lớn (đổi mới thiết bị/công nghệ). Chính vì thế, Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh thiết kế 2 hình thức hỗ trợ tài chính song hành cho nhóm đối tượng này, bao gồm:
(1) phát hành thư bảo lãnh tín dụng đối với 50% giá trị khoản tín dụng mà doanh nghiệp được ngân hàng phê duyệt ;
(2) trả thưởng cho doanh nghiệp tới 25% giá trị khoản vay tín dụng khi dự án đầu tư đạt được mức độ cải thiện môi trường nhất định. Trả thưởng ở đây có nghĩa là GCTF sẽ ‘thưởng’ cho doanh nghiệp thông qua trả hộ doanh nghiệp một phần nợ với ngân hàng.
PV : Làm thế nào để các DN tiếp cận nguồn vốn của Quỹ ?
Ms. Hằng: Xin được làm rõ là Qũy không giữ vai trò cấp vốn cho các dự án. Toàn bộ nguồn tín dụng cho doanh nghiệp là sẽ do các ngân hàng đã có cam kết với Quỹ cung cấp. Vai trò của Quỹ là hỗ trợ thế chấp thông qua bảo lãnh và trả thưởng.
Mọi DNVVN của Việt Nam (trên 50% sở hữu trong nước) của các ngành công nghiệp và một số ngành dịch vụ (khách sạn, tòa nhà, nhà hàng,khu dịch vụ vui chơi giải trí, giặt là) đều có thể đăng ký tìm kiếm hỗ trợ tài chính của Quỹ khi có các dự định thay đổi thiết bị/công nghệ phù hợp.
Các doanh nghiệp có thể tìm thấy biểu mẫu đăng ký dự án với GCTF thông qua trang web https://gctf.vncpc.org, điền thông tin của doanh nghiệp và dự án và gửi về ban điều phối GCTF tại Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam qua địa chỉ email : [email protected]. Bên cạnh đó Doanh nghiệp cũng có thể tiếp cận với Quỹ qua các cán bộ đầu mối tại các ngân hàng :
(1) [email protected] (bà Nguyễn Thị Khai Phương – Techcombank)
(2) [email protected] (bà Lê Thị Thường Chiếu – ACB)
(3) [email protected] (Bà Nguyễn Thị Khánh Hoài – VIB)
PV : Sau một thời gian triển khai, Quỹ có gặp những thuận lợi và khó khăn gì ?
Ngoài ra, cũng có những trường hợp đã xảy ra là doanh nghiệp xây dựng được những dự án khả thi về tiêu chí kỹ thuật của Quỹ những bản thân họ lại có những vấn đề tài chính riêng mà ngân hàng không chấp thuận cung cấp tín dụng ví dụ nợ xấu, không đủ tài sản thế chấp (mặc dù đã tính tới phần hỗ trợ bảo lãnh của GCTF, đang có quá nhiều khoản nợ song song, …)
Về những thuận lợi, bản thân việc trả thưởng như vừa đề cập ở trên cũng có thể được xem như một thuận lợi nên doanh nghiệp xác định được rõ điều này. Bên cạnh đó, một trong yếu tố có tác động tới việc doanh nghiệp quyết đổi mới thiết bị/công nghệ là khuôn khổ chính sách của nhà nước, ví dụ Chiến lược Sản xuất sạch hơn trong công nghiệp, Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu qủa, Luật bảo vệ môi trường, …
PV : Hoạt động của Quỹ trong thời gian tới ?
Chúng tôi tiếp tục các hoạt động truyền thông để quảng bá Quỹ tới các nhóm mục tiêu. Các dự án đã tiếp cận tới Quỹ sẽ được triển khai theo đúng lộ trình đã thống nhất với doanh nghiệp và ngân hàng.
PV : Xin cảm ơn… về cuộc trao đổi này.
Thực hiện : Phạm Đình Tuyên – Tạp chí Môi trường Số 04/2012
Ms Nguyễn Lê Hằng
Điều phối viên Quỹ GCTF
Trung tâm Sản xuất sạch hơn (VNCPC) – Số 1 Đại Cồ Việt Hà Nội
[email protected]
Tel: 04 3868 4849 – số máy lẻ 14
DĐ: 0912 467 692