Phát triển đội ngũ tư vấn sản xuất sạch hơn: “Cái khó nhất chính là thị trường”

 Phát triển đội ngũ tư vấn sản xuất sạch hơn: “Cái khó nhất chính là thị trường”

 Phát triển đội ngũ tư vấn sản xuất sạch hơn: “Cái khó nhất chính là thị trường”

Thị trường nhỏ bé, chính sách khuyến khích chưa đủ mạnh chính là nguyên nhân khiến đội ngũ tư vấn sản xuất sạch hơn (SXSH) chưa phát triển. Đó là khẳng định của ông Trần An – Phó giám đốc Công ty CP Tư vấn EPRO – đơn vị đã có nhiều năm thực hiện nhiệm vụ đào tạo tư vấn SXSH cho Hợp phần SXSH trong công nghiệp (CPI) và Chiến lược quốc gia về SXSH.

Được coi là “sợi chỉ đỏ” cho hoạt động SXSH, lực lượng tư vấn là một trong những yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của một dự án SXSH. Ông đánh giá như thế nào về đội ngũ này hiện nay?

Về số lượng các đơn vị tư vấn SXSH, hiện nay nhiều đơn vị có năng lực chuyên sâu về SXSH như Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam (VNCPC), EPRO. Ngoài ra, một số đơn vị có làm về SXSH như Trung tâm Tiết kiệm năng lượng TP. HCM, Trung tâm Tiết kiệm năng lượng và SXSH Hải Phòng… Tuy nhiên, các đơn vị này chủ yếu chỉ tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP. HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng… Riêng các nhóm tư vấn đã được CPI hỗ trợ và Bộ Công Thương tổ chức đào tạo trước đây thì hiện nay vẫn hoạt động và liên kết theo góc độ cá nhân, khi có khó khăn thì hỗ trợ cho nhau. Về chất lượng, các nhóm ở địa phương như Thái Nguyên, An Giang, Đà Nẵng… là những nhóm mạnh và với những ngành nghề không quá phức tạp, họ có thể làm tốt. Song, nhìn chung, lực lượng tư vấn SXSH hiện nay vẫn cần phải có thời gian rèn luyện và tích lũy thêm kinh nghiệm.

Là một người làm tư vấn lâu năm, theo ông, đâu là khó khăn lớn nhất đối với lực lượng tư vấn SXSH hiện nay?

Theo tôi khó khăn lớn nhất là thị trường chưa đủ lớn nên tư vấn dù có được đào tạo bài bản cũng giống như chỉ học lý thuyết mà không được thực hành, năng lực không thể phát huy được. Nghề tư vấn SXSH không có gì quá khó khăn hay phức tạp mà hoàn toàn là vấn đề thực hành, có nhiều người không học lý thuyết nhưng cứ làm nhiều rồi vẫn giỏi. Cho nên, cái quan trọng nhất vẫn là giải bài toán về thị trường.

Điều thứ hai là vì cơ chế chính sách chưa đủ mạnh, lực lượng tư vấn đôi khi không mặn mà gì với các dự án SXSH. Có một thực tế đang diễn ra hiện nay là khi có ngân sách để làm các đánh giá nhanh SXSH, rất nhiều địa phương có xu hướng tìm tư vấn bên ngoài thay vì tự làm. Điều này dẫn đến thực tế là nhiều khi các trung tâm tư vấn SXSH độc lập thường hoạt động mạnh hơn những trung tâm tư vấn trực thuộc các Sở Công Thương.

Với những rào cản như vậy, đâu là hướng giải quyết vấn đề này, thưa ông?

Theo tôi, nên chăng có một mức thù lao hoặc thu nhập cao hơn cho chính các cán bộ SXSH tại địa phương để họ có động lực tham gia làm các dự án SXSH thay vì hoàn toàn thuê ngoài. Tất nhiên, trước mắt, vì những hạn chế cả về kinh nghiệm và kỹ năng, sự phối hợp giữa các cán bộ địa phương và các đơn vị tư vấn chuyên sâu ở ngoài là cần thiết nhưng nếu xét về lâu dài sẽ không tốt vì vừa tốn kém, vừa khiến các cán bộ địa phương không có kinh nghiệm và kỹ năng thực hiện các dự án SXSH. Do vậy, các địa phương nên cân nhắc, tận dụng cơ hội này để có thể phát huy mạnh hơn năng lực của các đơn vị tư vấn và xây dựng lộ trình cho mình. Ví dụ, với 5 – 10 DN cần đánh giá mỗi năm, đầu tiên, có thể phối hợp tỷ lệ 75 – 25 (75% cán bộ thuê ngoài và 25% là cán bộ địa phương), sau đó tiến dần lên là 50 – 50 rồi 25 – 75. Điều này dần dần sẽ giúp lực lượng này nâng cao năng lực.

Sau khi Hợp phần CPI kết thúc, Chiến lược quốc gia về SXSH vẫn đang tiếp tục được triển khai rầm rộ. Lực lượng tư vấn SXSH sẽ đóng vai trò như thế nào trong sự thành công của Chiến lược, thưa ông?

Chiến lược quốc gia về SXSH đã và đang được triển khai thực hiện song DN và các địa phương vẫn đang có tư tưởng trông chờ quá nhiều vào ngân sách quốc gia. Nhiều địa phương vẫn hỏi năm nay CPI có hỗ trợ gì không mặc dù hợp phần đã kết thúc rồi và địa phương nào hiện nay cũng được hỗ trợ kinh phí để xây dựng chương trình hành động. Đấy là một vấn đề lớn và đòi hỏi sự “vào cuộc” của lực lượng tư vấn SXSH.

Cụ thể, họ phải giúp các DN tại các địa phương thấy rằng SXSH là mang lại lợi ích cho chính DN, mà trong đó có những giải pháp hoàn toàn không tốn chi phí hoặc chi phí rất thấp, chỉ đơn giản là thay đổi thói quen, tư duy và cách làm chứ đừng đợi đến khi có hỗ trợ kinh phí mới làm. Kinh nghiệm từ Công ty KIDO –chuyên sản xuất kem ở TP. HCM là một ví dụ. Là một công ty được Trung tâm Tiết kiệm năng lượng TP.HCM hỗ trợ về đánh giá nhanh và tư vấn, nhận thức được những lợi ích rõ ràng của việc ứng dụng SXSH, họ đã tự xây dựng được một kế hoạch với mục tiêu tiết kiệm điện, nước, xăng dầu hàng năm rõ ràng, thực hiện đầu tư nghiêm túc và hàng năm đều có báo cáo về những thay đổi cải tiến. Lợi nhuận thu được từ SXSH đã giúp họ nâng cao sức cạnh tranh và khẳng định chỗ đứng vững chắc hơn trên thị trường.

Xin cảm ơn ông!

Công ty Ắc quy Tia sáng – một điển hình của áp dụng Sản xuất sạch hơn

Sản xuất ắc quy chì-axit cũng như hóa chất tiêu tốn rất nhiều nguyên nhiên vật liệu, thải ra các chất độc hại ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao động và gây ô nhiễm môi trường. Mười năm trước, do thiết bị và công nghệ lạc hậu, Công ty ắc quy Tia sáng đã bị xếp vào điểm đen về ô nhiễm môi trường. Từ một doanh nghiệp nhận được quyết định buộc phải di dời, đến nay công ty đã đổi khác, trở thành một điển hình áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại và phương thức quản lý thân thiện môi trường.

Để đáp ứng được sự phát triển bền vững, Công ty nhận thấy cần phải đầu tư, nghiên cứu, cải tiến công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm giá thành sản phẩm và làm tốt công tác bảo vệ môi trường.

1. Nội dung nghiên cứu và các giải pháp

Công ty đã rà soát lại toàn bộ quá trình công nghệ, thiết bị sản xuất và các dòng phát thải, căn cứ số liệu thu thập được đưa ra các giải pháp cụ thể như: tiến công nghệ giảm tiêu tốn nguyên vật liệu, năng lượng, xử lý các công đoạn gây ô nhiễm, thay thế thiết bị cũ bẳng thiết bị tiên tiến và áp dụng các công cụ quản lý tiên tiến…

2- Các kết quả đã đạt được

2.1.  Thực hiện

–   Nghiên cứu, thiết kế, lắp đặt, hoàn thiện hệ thống thiết bị xử lý mù axit ở công đoạn điện phân “hoá thành tấm cực”.


Hình 1: Hệ thống xử lý mù axit 

Hình 2: Hệ thống hóa thành tấm cực

Hình 3: Máy cắt cực, chống bụi

–       Cải tiến hoàn thiện thiết bị cắt, mài tấm cực ắc quy và hệ thống xử lý bụi chì – khí thải của  “Xưởng gia công tấm cực”.

–       Nghiên cứu, chế tạo và lắp đặt hệ thống xử lý khí, bụi ở khâu “ đúc sườn cực”,  “nấu chì hợp kim và đúc phụ tùng ắc quy” .

–       Nghiên cứu, chế tạo và lắp đặt hệ thống xử lý khí, bụi ở công đoạn “xếp-gấp lá cách-lá cực” ắc quy tích điện khô và ắc quy kín khí .

–       Nhập khẩu, tự lắp đặt, vận hành các thiết bị mới tiên tiến từ Mỹ và Châu Âu, nghiên cứu cải tiến các thiết bị hiện có, giúp dây chuyền sản xuất hiện tại của Công ty là đồng bộ và tiên tiến.

2.2.  Kết quả đạt được

Góp phần giảm lượng chì và hợp kim chì phải nhập khẩu 10¸15%, giảm tiêu hao điện năng 40,19% , nước 78,36% , than 94,7% trong quá trình sản xuất. Tăng năng lực sản xuất của Công ty mà không phải đầu tư mở rộng nhà xưởng và nhập thêm thiết bị. Giảm thiểu ô nhiễm môi trường, góp phần bảo vệ sức khoẻ người lao động, giảm ăn mòn thiết bị, nhà xưởng. Chất lượng sản phẩm ắc quy được nâng lên, ổn định, đạt và vượt các chỉ tiêu chất lượng theo tiêu chuẩn quy định. Góp phần tăng uy tín thương hiệu của Công ty trên thị trường trong nước và quốc tế.

Tổng hợp các giải pháp về công nghệ và thiết bị đã thực hiện, không những công ty  tạo được môi trường làm việc tốt hơn mà còn giảm khối lượng lớn nguyên vật liệu, năng lượng cho quá trình sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao. Sau 10 năm đổi mới cho thấy tổng doanh thu của năm 2010 là 269 tỷ đồng, tăng hơn 4,7 lần so với năm 2000. Có được kết quả đó là do công ty đã mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị và nghiên cứu phát triển về công nghệ một cách đúng hướng, tiết kiệm khoảng 6 tỷ đồng mỗi năm. Nâng cao được nhận thức phát triển bền vững của toàn thể CBCNV, phát huy khả năng sáng tạo của người lao động. Chất lượng lao động được ổn định, sức khoẻ CBCNV được cải thiện, tỷ lệ nghỉ ốm, chi phí y tế giảm rõ rệt. Đồng thời, thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động được nâng lên bình quân là 4.700.000đ/người/ tháng.

 Với các kết quả đạt được Công ty Ắc quy Tia sáng đã được Bộ Công thương, Bộ Tài nguyên Môi trường, Tổng Công ty Hoá chất Việt nam và các Cơ quan quản lý thành phố Hải phòng tặng bằng khen về việc hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất, và thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường. Xứng đáng là một điển hình để các doanh nghiệp khác học tập.


Lợi ích từ sản xuất sạch hơn

Lợi ích từ sản xuất sạch hơn

Các giải pháp SXSH đã giúp các DN thu lợi không nhỏ

Tiết kiệm 14% điện trong phân xưởng sợi, 9% điện trong phân xưởng dệt và 4% than dùng sinh hơi cho quá trình hồ vải… là những lợi ích cơ bản mà các giải pháp sản xuất sạch hơn đã mang lại cho Công ty Dệt Vĩnh Phú.

Vào những năm 1970, Công ty Dệt Vĩnh Phú được coi là công ty lớn nhất Việt Nam về số lượng nhân viên, vốn đầu tư và thiết bị cho các quá trình từ kéo sợi, dệt vải, in đến hoàn thiện. Tuy nhiên, sau nhiều năm sử dụng, các thiết bị đã trở nên hao mòn, gây tốn nhiều năng lượng, cộng với công nghệ sản xuất lạc hậu khiến năng suất chưa cao, tiềm năng sản xuất sạch hơn (SXSH) của DN còn rất lớn.
Với những tiềm năng lớn như vậy, khi Hợp phần sản xuất sạch hơn trong công nghiệp (CPI) được triển khai ở tỉnh Phú Thọ, Dệt Vĩnh Phú chính là một trong những DN đầu tiên được lựa chọn để triển khai chương trình này. Theo đó, sau quá trình đánh giá tiềm năng SXSH tại đây, 9 giải pháp đã được DN triển khai trước và sau chương trình nhằm tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu và tiết giảm chi phí sản xuất. Theo thống kê của DN, nhờ thực hiện các giải pháp này, công ty đã tiết kiệm được hàng năm khoảng 1.000 MWh điện và 200 tấn than. Con số này tương ứng với tiết kiệm hàng năm 60.724 USD từ tổng số vốn đầu tư 21.759 USD. Thời gian hoàn vốn trung bình của tất cả các giải pháp là khoảng 4 tháng.
Cụ thể, trước khi tham gia SXSH, các trạm biến thế của công ty đều được lắp đặt từ những năm 1970 và chỉ hoạt động với 50% công suất. Do đó, trong quá trình triển khai chương trình, công ty đã lắp mới tụ bù cho các trạm biến thế, đồng thời chuyển tải của 6 trạm về tập trung tại 4 trạm. Với chi phí khoảng 2.930 USD, giải pháp này đã giúp công ty tiết kiệm được khoảng 113 MWh/năm, tương ứng với 5.831 USD. Thời gian hoàn vốn cho giải pháp này là 6 tháng.
Giải pháp tiêu biểu tiếp theo được công ty thực hiện là cải thiện hệ thống thông gió cho xưởng sợi số 2. Bởi trước đó, phân xưởng sợi số 2 là khu vực được thiết kế và sử dụng cho việc lưu trữ bông nên hệ thống thông gió không phù hợp khi có các máy kéo sợi hoạt động. Trong những ngày nắng nóng, nhiệt độ trong nhà có thể lên đến 400C, vì vậy, việc vận hành hệ thống làm mát trung tâm sẽ làm tăng đáng kể giá thành sản xuất. Do đó, công ty đã quyết định làm thêm cửa sổ để tăng cường đối lưu tự nhiên, đồng thời lắp đặt thêm 7 quạt hút và cải thiện việc theo dõi sử dụng hệ thống làm mát. Giải pháp này giúp công ty tiết kiệm thêm 223 MWh điện/tháng.
Trước hiệu quả của hai giải pháp trên, một giải pháp đòi hỏi chi phí cao hơn đã được công ty thực hiện là thay đổi chi số sợi và nâng cao năng suất máy kéo sợi thô. Do trước khi tham gia SXSH, 14 máy kéo sợi thô của công ty vẫn hoạt động theo quy trình cũ, năng suất chưa cao nên sau quá trình khảo sát SXSH, công ty đã quyết định đầu tư thay đổi chi số sợi nhằm nâng cao năng suất máy kéo sợi thô. Giải pháp này giúp chất lượng sợi thô cao hơn, không ảnh hưởng đến chất lượng của sợi con, đồng thời tăng sản lượng 14%, từ đó không chỉ tiết kiệm nhân công mà còn tiết kiệm 133 MWh điện tiêu thụ hàng tháng.
Sau khi chương trình SXSH tại nhà máy hoàn thành, so sánh số liệu trước và sau khi các giải pháp này được triển khai cho thấy, các nỗ lực không ngừng của công ty hàng năm đã giúp giảm tiêu thụ 14% điện trong phân xưởng sợi, 9% điện trong phân xưởng dệt và 4% than dùng sinh hơi cho quá trình hồ vải. Đồng thời, hàng năm, lượng khí nhà kính cũng giảm khoảng 1.096 tấn. Đây chính là tiền đề để công ty tiếp tục thực hiện các giải pháp SXSH ngay cả khi chương trình đã kết thúc. Đến thời điểm này, Dệt Vĩnh Phú luôn là một trong những DN điển hình làm tốt các giải pháp SXSH nhằm mang lại lợi nhuận lớn từ tiết giảm chi phí trong quá trình sản xuất./.

Ứng dụng công nghệ xanh với đèn gỗ phát sáng

Nhà thiết kế người Nhật Ryosuke Fukusada vừa giới thiệu thiết kế bóng đèn bằng gỗ rất độc đáo của mình.

                 
Bóng đèn gỗ trong bóng tối
Bóng đèn thông thường dùng vỏ thuỷ tinh và tim đèn làm bằng tungsten, một loại vật liệu phát ra nhiều nhiệt và sử dụng khá nhiều năng lượng. Thiết kế bóng đèn gỗ của ông Fukusada khắc phục được các nhược điểm này bằng cách dùng đèn LED (đèn điốt phát quang) với tính chất gọn, nhẹ, bền, tiết kiệm năng lượng và quan trọng hơn cả là đèn LED phát ra rất ít nhiệt. Chính đặc điểm này đã khiến cho việc kết hợp đèn LED với vỏ ngoài bằng gỗ trở nên khả thi, và bạn sẽ không phải lo đến việc chiếc đèn gỗ này bỗng nhiên phát cháy bất chợt.


                                   Bóng đèn gỗ của Fukusada ở trạng thái tắt và mở đèn
Phần vỏ gỗ được thiết kế theo kĩ thuật thủ công truyền thống của Nhật có tên Rokuro. Khi tắt đèn, lớp vỏ gỗ này trông cứng cáp và hoàn toàn kín khiến cho bạn không thể thấy được đèn LED bên trong. Tuy nhiên, khi bạn bật đèn, điều kì diệu sẽ xảy ra: lớp vỏ gỗ phát sáng lên như một bóng đèn neon thủy tinh. Bí mật nằm ở độ mỏng tối đa của lớp gỗ, được tạo nên bởi bàn tay khéo léo của nghệ nhân Fukusada.

Với ưu điểm nhẹ, ít nguy hiểm, tiết kiệm năng lượng và thiết kế độc đáo mang phong cách phương Đông, chiếc đèn gỗ hứa hẹn sẽ trở nên phổ biến đối với những người yêu thích công nghệ xanh cũng như công chúng yêu công nghệ nói chung.

Theo diginew.digisoft.

Wipro Unza ứng dụng công nghệ xanh xây nhà xưởng tại Việt Nam

Một thành viên thuộc tập đoàn Wipro, công ty chuyên kinh doanh sản phẩm chăm sóc cá nhân Wipro Unza khởi công xây dựng nhà xưởng ứng dụng công nghệ xanh tại KCN Việt Nam – Singapore, Bình Dương.

Kinh phí đầu tư khoảng 2 triệu USD, dự kiến gia tăng 200% sản lượng cho công ty sau khi đầu tư trang thêm trang thiết bị tại nhà xưởng mới
Dự án nhà kho mới của Wipro Unza khởi công ngày 01/11/2012, công trình dự kiến hoàn thành vào tháng 10/2013. Nhà kho hiện tại có diện tích là 2.791m2, dự án đầu tư xây mới trên diện tích đất 9.488m2. Nhà kho mới được thiết kế với diện tích 5.376m2, tăng 93% so với diện tích kho cũ.

Lễ khởi công xây dựng nhà xưởng
Lễ khởi công xây dựng nhà xưởng
Wipro Unza ứng dụng công nghệ xanh nhằm tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường và tối ưu công suất hoạt động. Nhà kho sẽ sử dụng thiết kế Flexi Narrow Aisle cho phép linh hoạt trong cách bố trí kho, có thể thu hẹp tối đa khoảng cách giữa các kệ chứa hàng vừa đủ cho các xe Flexi hoạt động. Đây là kỹ thuật tiên tiến đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam, nhà kho mới của Unza có thể tăng khả năng bố trí kệ hàng từ 3.400 kệ lên đến 8.131 kệ (tăng sức chứa lên đến 139%). Flexi Narrow Aisle là kỹ thuật mới đang được ứng dụng nhiều nơi trên thế giới giúp nhà xưởng tiết kiệm không gian, tối ưu công suất, tiết kiệm chi phí đầu tư. Cách thiết kế này giúp tiết kiệm diện tích xây dựng, khu vực còn lại bên ngoài nhà kho Unza đủ cho khoảng 40 container đậu và di chuyển.

Lễ khởi công xây dựng nhà xưởng

Ngoài ra, nhà kho của Unza được trang bị thiết bị chữa cháy toàn diện đảm bảo tính an toàn cao. Toàn bộ khu vực bên trong và bên ngoài nhà kho sử dụng hệ thống chiếu sáng tiết kiệm năng lượng. Nguồn năng lượng mặt trời được tận dụng để chiếu sáng vào ban ngày và hệ thống thông gió tự nhiên tiết kiệm điện. Nhằm hạn chế việc khai thác mạch nước ngầm giữ màu xanh cho không gian xung quanh và thân thiện với mới trường, nhà kho được xây dựng riêng một bể chứa nước để lưu trữ nguồn nước mưa và sử dụng dần trong vận hành kho.

Công nghệ xanh và kỹ thuật tiên tiến, Wipro Unza đạt được mục tiêu tiết kiệm chi phí, tối ưu công suất, thân thiện và bảo vệ môi trường. Đây cũng là xu hướng xây dựng nhà xưởng được ứng dụng nhiều nước tiên tiến trong thời kỳ khủng hoảng năng lượng như hiện nay.

Wipro Unza có mặt tại Việt Nam từ năm 1996 với các nhãn hàng nổi tiếng như Romano, Enchanteur, Izzi… và nhiều chăm sóc cá nhân khác. Sản phẩm của công ty được sản xuất 90% tại các nhà máy riêng đặt tại Malaysia, Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia.

 Theo dantri.com

Ứng dụng công nghệ vào khách sạn xanh

ứng dụng công nghệ vào khách sạn xanh
 Ứng dụng công nghệ vào khách sạn xanh

Rất nhiều khách sạn ngày nay cam kết sẽ trở thành một khách sạn “xanh”, tức là một khách sạn thân thiện với môi trường và hệ sinh thái nhằm thu hút khách du lịch tìm đến đặt chỗ và nghỉ lại.

Thông tin trên trang web chuyên về đặt chỗ trực tuyến Travelocity, cho thấy trên thực tế khách du lịch ưu tiên đặt chỗ tại các khách sạn “xanh”. Theo thống kê của trang web này, các khách sạn thân thiện với môi trường nhận được nhiều sự quan tâm của khách du lịch hơn những đối thủ khác.

Nhiều khách du lịch tìm kiếm chỗ ở cho những ngày nghỉ của mình trên các trang web như Travelocity, Expedia và Orbitz luôn tra cứu ngay vào danh mục các khách sạn “xanh” và từ chối đặt chỗ tại những khách sạn chưa có chứng nhận gì. Điều này đã khiến những ông chủ của các khách sạn bắt đầu phải quan tâm hơn đến khái niệm “phát triển bền vững”.

Mới đây, một khách sạn tại Tây Ban Nha trong chuỗi các khách sạn mang tên NH đã giới thiệu hệ thống “Máy tính đếm lượng khí cácbon,” hệ thống này cho các vị khách biết lượng cácbon mà họ thải ra khi nghỉ tại khách sạn.

Hệ thống này còn có khả năng tính toán được những tác động tới môi trường của việc sử dụng các loại phương tiện giao thông khác nhau. Đây là một hệ thống máy tính đầu tiên kiểu như vậy được trang bị tại một chuỗi khách sạn. NH cũng tổ chức những cuộc họp hay hội nghị cho các khách hàng là doanh nhân với tiêu chí “các cuộc họp sinh thái”.

Chuỗi khách sạn Scandic tại Bắc Âu cũng được nhắc đến với tư cách là “người tiên phong” khi đã không sử dụng các loại nước đóng chai tại các khách sạn của mình. Scandic cũng cam kết sẽ trang bị cho tất cả các nhân viên khách sạn loại đồng phục hữu cơ trong thời gian tới

Ứng dụng khoa học công nghệ đảm bảo sản xuất sạch hơn

Ứng dụng khoa học công nghệ đảm bảo sản xuất sạch hơn

Ứng dụng khoa học công nghệ đảm bảo sản xuất sạch hơn

Nhiều năm qua, nhờ ứng dụng hàng loạt những giải pháp khoa học công nghệ hiệu quả vào sản xuất, Công ty Xăng dầu B12 – Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam đã đạt được những hiệu quả cao trong sản xuất sạch hơn, phát triển bền vững.

Công ty Xăng dầu B12 là đơn vị trực thuộc Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam, có chức năng là đầu mối nhập khẩu xăng dầu; bảo quản, bơm chuyển bằng đường ống tạo nguồn cho các đơn vị phía sau; trực tiếp tổ chức kinh doanh xăng dầu và các sản phẩm hóa dầu trên địa bàn các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng…

Với đặc trưng của ngành kinh doanh xăng dầu là tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ cháy nổ, làm ô nhiễm môi trường. Cho nên, công tác bảo vệ môi trường, phòng chống cháy nổ luôn được công ty quan tâm thực hiện. Hàng năm, công ty đã xây dựng kế hoạch và chương trình thực hiện bảo vệ môi trường, đồng thời tổ chức lớp tập huấn Luật Môi trường đến các cán bộ, công nhân viên; tổ chức trồng và chăm sóc cây xanh để tạo khuôn viên sạch, đẹp. Bên cạnh đó, hệ thống thu gom, xử lý chất thải, nước thải nguy hại đã được xây dựng tại các khu đất trống, kho cảng và các điểm bán lẻ.

Hiện nay, hệ thống kho bể của công ty có sức chứa khoảng trên 225.000m3 với gần 500km đường ống, trên 100 cửa hàng bán lẻ xăng dầu đã được đầu tư hệ thống thiết bị chuyên ngành hiện đại, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong mọi lĩnh vực giao, nhận, vận chuyển hàng hóa nhằm hạn chế thấp nhất những rủi ro có thể sinh ra trong các quá trình này, gây ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Cụ thể, cửa hàng bán lẻ xăng dầu và bến xuất ôtô xitec đã được lắp đặt hệ thống thu hồi hơi xăng dầu; Bể chứa đã được lắp đặt mái phao, van an toàn; Các kho dầu đã được đầu tư lắp đặt chương trình tự động hóa – hiện đại hóa trong nhập, xuất hàng, đồng thời được đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, thay thế thiết bị mới nhằm đảm bảo an toàn trong vận hành cũng như trong sản xuất. Hệ thống thu hồi hơi, mái phao, van an toàn đã giúp giảm thiểu hầu hết hơi xăng, dầu bay ra ngoài môi trường, giữ gìn môi trường trong sạch cho người dân và cho lao động của công ty.

Để hạn chế tình trạng tràn dầu, công ty đã đầu tư hệ thống phao quay phòng, chống dầu tràn, giấy thấm dầu, chất phân tán dầu, công nghệ xử lý tràn hiện đại và hai tàu cứu hộ, tạo thành dây chuyền hoàn chỉnh, sẵn sàng ứng phó với sự cố tràn dầu tại khu vực cảng. Với hệ thống này, công ty đã nhiều lần tham gia ứng cứu thành công sự cố tràn dầu trên biển.

Với định hướng tự động hóa, hiện đại hóa từ khâu tiếp nhận đến khâu cung ứng xăng dầu, đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường, công ty đã đầu tư và đưa vào sử dụng hệ thống đo mức từ xa, hệ thống xuất hàng tự động… Bên cạnh đó, công ty còn đầu tư phòng hóa nghiệm VILAS với các trang thiết bị hiện đại như: Máy đo trị số ốc – tan; máy xác định hàm lượng lưu huỳnh; máy sắc kí khí; máy xác định hàm lượng dầu trong nước… Hệ thống xử lý nước thải nhiễm dầu và bùn cặn nhiễm dầu cũng đã được lắp đặt để đảm bảo nước thải ra môi trường đạt tiêu chuẩn Việt Nam tại khu vực Cảng dầu B12. Cụ thể, nước thải, bùn cặn đã được hệ thống thu gom đưa về khu xử lý, lọc hóa giữ lại xăng dầu, sau đó mới đổ ra biển. Công trình xử lý nước thải, chất thải nhiễm dầu là công trình được công ty phối hợp với Viện sinh học đưa vào hoạt động từ năm 2001. Hàng năm, công ty vẫn thường xuyên duy trì tổ chức quan trắc, đánh giá tác động môi trường và kiểm soát mức độ ô nhiễm môi trường đối với các kho chứa, cảng, cửa hàng xăng dầu để kịp thời có phương án khắc phục, sửa chữa, nâng cấp nhằm đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường.

Với những hoạt động bảo vệ môi trường nghiêm túc, bài bản bằng hệ thống trang thiết bị hiện đại, khoa học kỹ thuật, nhiều năm qua, công ty chưa bao giờ để xảy ra sự cố gây ô nhiễm môi trường, là một trong những điển hình về SXSH ngành xăng dầu. Bên cạnh đó, sức khỏe của công nhân công ty cũng được đảm bảo./.

Theo baomoi

UPS – “Công nghệ xanh” cho sự phát triển bền vững

Đầu tư vào công nghệ nhằm tiết kiệm chi phí, mang lại lợi thế cạnh tranh cho các đối tác, hướng đến một “thế giới xanh” hơn được xem là nền tảng phát triển bền vững của công ty UPS.

Công nghệ: chiếc chìa khóa vàng
Ông Jeff McLean, Tổng giám đốc UPS Việt Nam trong một cuộc phỏng vấn báo chí gần đây đã chia sẻ một khái niệm mới về công nghệ định hình ngành hậu cần và chuyển phát nhanh trong tương lai “đám mây hậu cần” (logistics cloud).
Trên thế giới, “điện toán đám mây” là công nghệ được sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, “đám mây hậu cần” vẫn còn là một khái niệm xa lạ đối với ngành hậu cần thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Riêng đối với UPS, nhà tiên phong công nghệ “đám mây hậu cần”, thì xem nó là công cụ hỗ trợ nhằm phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn.

UPS – “Công nghệ xanh” cho sự phát triển bền vững

Dây chuyền vận chuyển hàng gửi ứng dụng công nghệ quét mã vạch tại Công ty UPS
Đối với thị trường Việt Nam, Jeff McLean nhận định, công nghệ “đám mây hậu cần”, với đặc tính chi phí kinh tế hiệu quả nhờ thông tin được chia sẻ, sẽ đặc biệt phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn đang chiếm trên 90% lượng doanh nghiệp tại Việt Nam. Ngoài ra, thông qua công nghệ “đám mây hậu cần”, các khách hàng của UPS có thể gia tăng khả năng tiếp cận rộng rãi đến các nguồn thông tin về công ty và doanh nghiệp trên toàn thế giới, nắm bắt thời gian giao hàng chuẩn xác, giảm tồn kho không cần thiết và kịp thời tránh các bất ổn trong khi hàng hóa được vận chuyển.
Ngoài ra, UPS còn áp dụng nhiều công nghệ hiện đại trong hoạt động vận chuyển hàng toàn cầu như công cụ DIAD là loại thiết bị hiện đại dùng để theo dõi quá trình giao hàng của hơn 15 triệu lượt hàng hóa mỗi ngày trên khắp thế giới, nhãn hàng hóa thông minh để theo dõi hành trình vận chuyển, 2 trung tâm lưu trữ thông tin toàn cầu, công nghệ xử lý hóa đơn điện tử, trang web của UPS sử dụng 12 ngôn ngữ châu Á khác nhau để cập nhật và theo dõi mọi thông tin liên quan đến hàng hóa của khách hàng.
Ông Jeff McLean cho hay, công ty UPS đã đầu tư 1 tỉ USD cho việc cải tiến công nghệ và xem đây là lợi thế cạnh tranh khác biệt trên thị trường.
Sự khác biệt của công nghệ tại UPS nằm ở chuyên môn cao và khả năng mang lại những giải pháp đa dạng để phục vụ cho việc kinh doanh của khách hàng một cách hiệu quả. Nó không chỉ cho phép các công ty theo dõi hàng hóa trên toàn chuỗi cung ứng mà còn có khả năng dự đoán các vấn đề tiềm tàng trước khi chúng xảy ra để đưa ra giải pháp dựa trên thông tin quan trọng đó.

UPS – “Công nghệ xanh” cho sự phát triển bền vững

Với mục tiêu phát triển bền vững

DIAD, “đám mây hậu cần” hay hóa đơn điện tử, tất cả đều nằm trong một chiến lược phát triển bền vững dựa vào “công nghệ xanh” của UPS. Ông Jeff McLean chia sẻ, bền vững là chìa khóa cho sự phát triển của chúng tôi. Do đó, toàn bộ đầu tư của chúng tôi là tối ưu hóa hệ thống toàn cầu nhằm tiết kiệm thời gian, năng lượng, sự tiêu hao nhiên liệu và khí thải.
Điển hình như hệ thống lên kế hoạch bay hiệu quả của Trung tâm Công nghệ Lufthansa Systems có thể giúp tiết giảm gần 3,7 triệu lít nhiên liệu tiêu hao hay hệ thống quản lý mặt đất cũng có thể giúp tiết kiệm hơn 1,3 triệu lít nhiên liệu và hàng triệu USD mỗi năm. Điều này đồng nghĩa có thể giảm hơn 3,3 tấn khí thải CO2 mỗi năm.

“UPS luôn muốn giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và tiêu hao năng lượng nên mọi công nghệ đều hướng tới muc tiêu này. Ít ai biết rằng với công nghệ DIAD, UPS có thể tiết kiệm 89 triệu tờ giấy mỗi năm, tương đương giảm sự chặt phá của hơn 7,000 cây rừng”, ông Jeff McLean nhấn mạnh.

Với chiến lược và đầu tư vào công nghệ hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, UPS không còn là nhà cung cấp logistics đơn thuần mà trở thành đối tác tin cậy, luôn đồng hành cùng khách hàng và đối tác. Riêng ở Việt Nam việc đầu tư vào công nghệ và ứng dụng đã góp phần lớn tạo nên mức tăng trưởng lên đến 60% trong năm 2011 (so với 50% của Trung Quốc và mức trung bình 30% của khu vực). Điều này được minh chứng bởi sự nhìn nhận tin tưởng của nhiều đối tác, cũng như khẳng định vị thế ngày càng tăng của UPS.

 

 

Dự án cảng quốc tế ITC Phú Hữu nhập cần cẩu bốc xếp

Công ty CP Vận tải và Thương mại Quốc tế (ITC) đã ký hợp đồng với Kocks Krane GMBH – CHLB Đức và Cargotec – Phần Lan về trang bị cần cẩu chuyên dụng bốc xếp container trên bến và cần cẩu bánh lốp trên bãi.
Hai loại cần cẩu này được trang bị dành cho dự án cảng quốc tế ITC Phú Hữu. Đây là những thiết bị hiện đại với “công nghệ xanh” thân thiện với môi trường do chạy bằng điện thay vì dầu DO, có khả năng tự phát điện và giảm tiêu thụ năng lượng lên đến hơn 30%.

Được khởi công từ tháng 6/2010 bằng nguồn vốn đầu tư hơn 180 triệu USD, dự án cảng quốc tế ITC Phú Hữu xây dựng trên tổng diện tích 41.37 hecta thuộc phường Phú Hữu, quận 9, TP HCM.

Nằm giữa các cụm công nghiệp, khu công nghiệp của 3 tỉnh trọng điểm gồm TP HCM, Bình Dương và Đồng Nai, đặc biệt với độ sâu luồng tàu hiện nay, cảng quốc tế ITC Phú Hữu có thể đảm bảo cho tàu tới 36.000 DWT dễ dàng ra vào làm hàng trong điều kiện kín gió. Có thể nói, dự án này là cảng biển đầu tiên có quy mô lớn và hiện đại, do đơn vị tư nhân đầu tư nhằm nâng cao năng lực hạ tầng giao thông cho TP HCM nói riêng và cho toàn bộ khu vực phía Nam nói chung, theo chủ trương của Thủ tướng, của Bộ Giao thông Vận tải và của UBND TP HCM.

Dự án được triển khai ở giai đoạn 1 với 600 mét cầu tàu dự kiến đưa vào hoạt động đầu quý 2/2013 và giai đoạn 2 với 300 mét cầu tàu sẽ đưa vào hoạt động năm 2014. Việc này tạo điều kiện tốt cho các chủ hàng, chủ tàu đón nhận và chung chuyển hàng hóa đến TP HCM, các tỉnh lân cận khi các cảng biển trong nội đô TP HCM phải di dời trong giai đoạn 2013-2015.

Ông Nguyễn Văn Chuyền – Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty ITC cho biết: “Để có được một cảng biển hiện đại, sau khi xem xét tất cả chào thầu từ các nhà cung cấp, Công ty ITC đã quyết định ký hợp đồng mua thiết bị cần cẩu chuyên dụng bốc xếp container trên bến (Ship To Shore crane-STS), do Kocks Krane GMBH của CHLB Đức sản xuất có sức nâng 40 tấn, tầm với đạt 13 hàng containers và cần cẩu bánh lốp trên bãi (Rubber Tire Gantry crane-RTG) mang thượng hiệu Kalmar, do tập đoàn Cargotec của Phần Lan sản xuất với sức nâng 40 tấn.

Đây là những thiết bị hiện đại hiện nay, sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả, thân thiện với môi trường và cũng là lợi thế cạnh tranh lớn của cảng quốc tế ITC Phú Hữu khi đi vào hoạt động nhờ chi phí vận hành thấp. Trong giai đoạn 1 của dự án, Công ty ITC đặt mua 4 cần cẩu STS và 8 cần cẩu RTG, trong đó một nửa số thiết bị trị giá hơn 300 tỷ đồng sẽ được bàn giao trong quý 1/2013, để chuẩn bị cho việc đưa cảng vào khai thác kịp tiến độ. Cảng sẽ được điều hành và khai thác bởi Công ty CP Cảng Quốc tế ITC Phú Hữu”.

vnexpress.

Các giải pháp tiết kiệm năng lượng trong lò hơi

các giải pháp tiết kiệm năng lượng trong lò hơi

Các giải pháp tiết kiệm năng lượng trong lò hơi (ảnh minh họa)

Theo thống kê, hiện nay, trên cả nước đang sử dụng hàng nghìn lò hơi các loại. Trong đó, phần lớn các lò hơi có hiệu suất sử dụng năng lượng thấp, làm gia tăng tình trạng ô nhiễm môi trường và kém hiệu quả về mặt kinh tế. Tình hình này đặt ra yêu cầu cần thiết phải có các giải pháp giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu suất, tiết kiệm năng lượng trong sử dụng và vận hành các lò hơi.

 Ở Việt Nam, các loại lò hơi chủ yếu được dùng trong lĩnh vực công nghiệp. Các lò hơi này có công suất từ 1 tấn/giờ – 300 tấn/giờ. Phần lớn các lò hơi đang sử dụng đều có hiệu suất năng lượng thấp nên lượng khí độc hại do đốt nhiên liệu phát thải vào môi trường rất cao.Bên cạnh đó, công nghệ lò hơi lạc hậu nên mức tiêu hao năng lượng để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm cao. Vì vậy, việc nâng cao hiệu suất, tiết kiệm năng lượng đối với lò hơi đang là vấn đề được các doanh nghiệp quan tâm, nhất là trong thời điểm hiện nay, khi giá nhiên liệu có xu hướng ngày càng tăng.

Có nhiều biện pháp nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng trong hệ thống lò hơi liên quan đến quá trình đốt, truyền nhiệt, hao hụt năng lượng, giảm mức tiêu thụ điện của thiết bị phụ trợ. Bằng việc kiểm tra một số yếu tố sau có thể giúp doanh nghiệp đánh giá được thiết bị lò hơi của đơn vị mình có được vận hành với hiệu suất tối đa hay không.

Vận hành hệ số không khí thừa ở nhiệt độ thích hợp

Theo phương pháp chuẩn đối sánh, đối với lò dầu thì tỉ lệ bay hơi tốt nhất là 14% đối với khí CO2 và 1,5% đối với O2. Để điều chỉnh nồng độ O2 hoặc CO2, doanh nghiệp có thể dùng các biện pháp như: Dùng vòi đốt có tỷ lệ Nox/O2 thấp, cải tiến lá chắn tiết lưu và cách điều chỉnh, chống không khí rò lọt vào lò qua các cửa, nút ở thành lò hơi; sửa chữa, cải tiến hoặc thay thế vòi đốt, hoặc cải tiến bộ lá chắn và phương pháp điều khiển.

Gia nhiệt nước cấp sử dụng bộ tiết kiệm nhiệt

Thông thường, khí nóng thoát ra khỏi lò hơi 3 lớp hiện đại có nhiệt độ từ 200 đến 3000C. Do vậy, có thể thu hồi được từ các dòng khí nóng này. Nhiệt độ của khí nóng thoát ra từ lò hơi thường được duy trì ở mức tối thiểu là 2000C, do đó ôxít lưu huỳnh trong khí nóng không ngưng tụ được và gây ăn mòn bề mặt truyền nhiệt.

Khi sử dụng các nhiên liệu sạch như: khí gas tự nhiên, khí hóa lỏng hoặc dầu khí, cần phải tính đến hiệu quả kinh tế của việc thu hồi nhiệt vì nhiệt độ của khí xả nóng có thể dưới 2000C.

Khả năng tiết kiệm năng lượng phục thuộc vào loại lò hơi và loại nhiên liệu được sử dụng. Với loại lò hơi điển hình kiểu cũ, nhiệt độ khí xả nóng đạt 2600C, ta có thể sử dụng bộ tiết kiệm để giảm nhiệt độ xuống còn 2000C, giúp tăng nhiệt độ nước cấp thêm 150C.

Lò hơi 3 lớp hiện đại đốt khí gas tự nhiên có nhiệt độ khí xả nóng ở mức 1400C, sử dụng bộ tiết kiệm ngưng tụ giúp giảm nhiệt độ khi xả xuống 650C và tăng hiệu suất nhiệt lên 5%.

Gia nhiệt không khí đốt

Gia nhiệt khí đốt là biện pháp thay thế việc làm nóng nước cấp. Để tăng hiệu suất nhiệt lên 1%, nhiệt độ không khí đốt phải tăng thêm 200C. Hầu hết bộ đốt dầu và khí gas trong các trạm lò hơi không được thiết kế để sử dụng ở mức nhiệt độ gia nhiệt không khí cao.

Các bộ đốt hiện đại có thể chịu được sự gia nhiệt không khí đốt cao hơn nhiều, do vậy, có thể coi những thiết bị này giống như bộ trao đổi nhiệt cho dòng khí xả nóng và là biện pháp thay thế bộ tiết kiện năng lượng hoặc là nhiệt độ khoảng không hay nhiệt độ của nước cấp giúp nó hoạt động.

Điều tiết xả hơi tự động

Xả hơi liên tục mà không kiểm soát sẽ rất lãng phí. Điều tiết xả hơi tự động được lắp đặt giúp phát hiện và phản ứng với suất dẫn và độ pH của nước lò hơi. Cứ 10% xả hơi cho 15kg/cm2 trong lò hơi dẫn đến mức hao hụt hiệu suất tới 3%.

Giảm đóng cặn và tạo bồ hóng của các lò hơi đốt than và dầu, bồ hóng tích tụ trong ống giống như chất cách nhiệt cho quá trình truyền nhiệt. Những cặn lắng như vậy cần phải loại bỏ thường xuyên. Nhiệt độ ống khói tăng lên cho thấy lượng bồ hóng tích tụ quá nhiều. Hiện tượng nhiệt độ ống khói tăng cũng xảy ra do sự đóng cặn ở bình chứa nước.

Nhiệt độ khí xả cao ở mức dư lượng không khí bình thường cho thấy khả năng truyền nhiệt kém. Điều này sẽ dẫn tới việc tích tụ dần cặn lắng ở phía buồng khí hay khoang chứa nước. Khi có cặn lắng ở khoang chứa nước, cần xem xét lại quy trình xử lý nước và vệ sinh ống để loại bỏ cặn lắng. Ước tính khi nhiệt độ trong ống xả khói tăng lên 22% thì tương ứng hiệu suất sẽ giảm đi 1%.

Nên kiểm tra và lấy số liệu nhiệt độ ống xả khói thường xuyên để đánh giá các chỉ số của cặn lắng và bồ hóng. Khi nhiệt độ khí nóng tăng thêm khoảng 200C so với nhiệt độ thông thường ở các lò hơi mới vệ sinh, cần phải nhanh chóng loại bỏ cặn lắng và bồ hóng. Do vậy, nên lắp đặt một nhiệt kế kiểu mặt đồng hồ ở chân đế của ống xả khói để kiểm tra nhiệt độ khí xả nóng.

Mỗi lớp bồ hóng có độ dày 1mm sẽ làm tăng nhiệt độ của ống xả khói lên 550C. Ước tính, một lớp bồ hóng dày 3mm, mức tiêu thụ nhiên liệu sẽ tăng lên khoảng 2,5%. Việc vệ sinh định kỳ bề mặt lò đốt, thùng chứa cửa lò hơi, bộ tiết kiệm năng lượng và bộ sưởi không khí sẽ giúp loại bỏ các cặn lắng bám lâu ngày.

Giảm áp suất hơi nước của lò hơi

Đây là biện pháp hiệu quả giúp giảm lượng nhiên liệu tiêu thụ ở mức cho phép từ 1 đến 2%. Giảm áp suất hơi nước đồng nghĩa với việc thu được nhiệt độ hơi nước bão hòa thấp và không cần thu hồi nhiệt thải từ ống xả khói, đồng thời còn giúp giảm nhiệt độ của khí nóng.

Hơi nước được sinh ra dưới áp suất (thường là áp suất cao nhất) theo yêu cầu nhiệt độ cho từng quá trình cụ thể. Trong một số trường hợp, quá tình sinh hơi không phải lúc nào cũng luôn xảy ra, và có những thời điểm áp suất lò hơi có thể giảm xuống được. Người phụ tránh điều tiết năng lượng cần xem xét kỹ lưỡng việc giảm áp suất trước khi vận hành lò hơi. Các ảnh hưởng bất lợi như: tăng lượng nước chảy từ lò hơi do giảm áp suất có thể đi ngược lại với mục đích tiết kiệm năng lượng, áp suất nên giảm theo từng đợt và không nên vượt quá 20%.

Điều tiết thay đổi tốc độ của quạt, thiết bị quạt gió và bơm

Việc điều tiết thay đổi tốc độ của quạt, thiết bị quạt gió và bơm có ý nghĩa quan trọng giúp tiết kiệm năng lượng. Thông thường, việc kiểm soát không khí đốt được hỗ trợ bởi các van tiết lưu lắp tại các quạt gió cảm ứng và cưỡng bức. Tuy van tiết lưu là thiết bị điều chỉnh đơn giản, nhưng lại thiếu chính xác, khiến khả năng điều chỉnh tại vị trí đầu và cuối của hệ thống vận hành kém. Nhìn chung, nếu đặc điểm nạp tải của lò hơi biến đổi, có thể thay thế van tiết lưu bằng một bộ điều tiết thay đổi tốc độ biến tần.

Thay thế lò hơi

Việc thay thế lò hơi được tiến hành, nếu lò hơi đang sử dụng là cũ và kém hiệu quả, hoặc lò hơi không có khả năng đốt những nhiên liệu thay thế có chi phí thấp hơn; hoặc lò to quá cỡ hay nhỏ hơn so với yêu cầu.

Bên cạnh việc xem xét các yếu tố về tính sẵn có của nhiên liệu và kế hoạch phát triển của mình, doanh nghiệp cũng nên cân nhắc đến yếu tố tài chính và nhân lực trước khi quyết định thay thế, vì các lò hơi thường có tuổi thọ trên 25 năm.

Trên đây là một số biện phát cơ bản để kiểm tra hiệu quả hoạt động của lò hơi tại các doanh nghiệp, xưởng sản xuất, giúp tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao hiệu quả sản xuất.