Sản Xuất Sạch

Sản xuất sạch–Quy Dau Tu-Moi Truong Xanh-Vay Tien

Sản xuất sạch hơn là cải tiến liên tục quá trình sản xuất công nghiệp, sản phẩm và dịch vụ để giảm sử dụng tài nguyên thiên nhiên, để phòng ngừa tại nguồn ô nhiễm không khí, nước và đất, và giảm phát sinh chất thải tại nguồn, giảm thiểu rủi ro cho con người và môi trường

  • Đối với quá trình sản xuất: Sản xuất sạch hơn bao gồm tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng, loại trừ các nguyên liệu độc, giảm lượng và độ độc của các dòng thải trước khi đi ra khỏi quá trình sản xuất.
  • Đối với sản phẩm: Sản xuất sạch hơn làm giảm ảnh hưởng trong toàn bộ vòng đời của sản phẩm từ khâu chế biến nguyên liệu đến khâu thải bỏ cuối cùng.

Mục tiêu của sản xuất sạch hơn là tránh ô nhiễm bằng cách sử dụng tài nguyên, nguyên vật liệu và năng lượng một cách có hiệu quả nhất. Điều này có nghĩa là thay vì bị thải bỏ sẽ có thêm một tỷ lệ nguyên vật liệu nữa được chuyển vào thành phẩm.

Để đạt được điều này cần phải phân tích một cách chi tiết và hệ thống trình tự vận hành cũng như thiết bị sản xuất hay yêu cầu một Đánh giá về sản xuất sạch hơn.Các khái niệm tương tự với sản xuất sạch hơn là:- Giảm thiểu chất thải; – Phòng ngừa ô nhiễm; và – Năng suất xanh.Về cơ bản, các khái niệm này đều giống với sản xuất sạch hơn; đều cùng có ý tưởng cơ sở là làm cho các doanh nghiệp hiệu quả hơn và ít ô nhiễm hơn.Các giải pháp về sản xuất sạch hơn có thể là:

–        Tránh các rò rỉ, rơi vãi trong quá trình vận chuyển và sản xuất, hay còn gọi là kiểm soát nội vi; – Đảm bảo các điều kiện sản xuất tối ưu từ quan điểm chất lượng sản phẩm, sản lượng, tiêu thụ tài nguyên và lượng chất thải tạo ra;- Tránh sử dụng các nguyên vật liệu độc hại bằng cách dùng các nguyên liệu thay thế khác; – Cải tiến thiết bị để cải thiện quá trình sản xuất

–        Lắp đặt thiết bị sản xuất có hiệu quả, và – Thiết kế lại sản phẩm để có thể giảm thiểu lượng tài nguyên tiêu thụ.Sản xuất sạch hơn và kiểm soát ô nhiễmSản xuất sạch hơn không giống như xử lý cuối đường ống, ví dụ như xử lý khí thải, nước thải hay bã thải rắn. Các hệ thống xử lý cuối đường ống làm giảm tải lượng ô nhiễm nhưng không tái sử dụng được phần nguyên vật liệu đã mất đi. Do đó, xử lý cuối đường ống luôn luôn làm tăng chi phí sản xuất. Trong khi đó, sản xuất sạch hơn mang lại các lợi ích kinh tế song song với giảm tải lượng ô nhiễm. Sản xuất sạch hơn đồng nghĩa với giảm thiểu chất thải và phòng ngừa ô nhiễm. Sản xuất sạch hơn cũng là một bước hữu ích cho hệ thống quản lý môi trường như ISO14000. Xem thêm chi tiết phần Lợi ích của sản xuất sạch hơn.UNEP dịnh nghĩa sản xuất sạch hơn là:

–        Việc áp dụng liên tục chiến lược phòng ngừa tổng hợp về môi trường vào các quá trình sản xuất, sản phẩm và dịch vụ nhằm nâng cao hiệu suất sinh thái và giảm thiểu rủi ro cho con người và môi trường. – Đối với quá trình sản xuất: sản xuất sạch hơn bao gồm bảo toàn nguyên liệu và năng lượng, loại trừ các nguyên liệu dộc hại và giảm lượng và tính dộc hại của tất cả các chất thải ngay tại nguồn thải. – Đối với sản phẩm: sản xuất sạch hơn bao gồm việc giảm các ảnh hưởng tiêu cực trong suốt chu kỳ sống của sản phẩm, từ khâu thiết kế dến thải bỏ. – Đối với dịch vụ:sản xuất sạch hơn dưa các yếu tố về môi trường vào trong thiết kế và phát triển các dịch vụ

–        Lợi ích của sản xuất sạch hơn Sản xuất sạch hơn có ý nghĩa đối với tất cả các cơ sở công nghiệp, lớn hay bé, tiêu thụ nguyên liệu, năng lượng, nước nhiều hay ít. Đến nay, hầu hết các doanh nghiệp đều có tiềm năng giảm lượng nguyên nhiên liệu tiêu thụ từ 10-15% !Sạch hơn tốt hơn cho các doanh nghiệpTại sao vậy ? Các doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn là doanh nghiệp đã giảm thiểu các tổn thất nguyên vật liệu và sản phẩm, do đó có thể đạt sản lượng cao hơn, chất lượng ổn định, tổng thu nhập kinh tế cũng như tính cạnh tranh cao hơn.Các lợi ích của sản xuất sạch hơnKinh nghiệm thực tế đã chỉ ra rằng sản xuất sạch hơn không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn cả lợi ích về mặt môi trường.

Các lợi ích này có thể tóm tắt như sau:

    • Cải thiện hiệu suất sản xuất;
    • Sử dụng nguyên liệu, nước, năng lượng có hiệu quả hơn;
    • Tái sử dụng phần bán thành phẩm có giá trị;
    • Giảm ô nhiễm;
    • Giảm chi phí xử lý và thải bỏ các chất thải rắn, nước thải, khí thải;
    • Tạo nên hình ảnh về mình tót hơn; và
    • Cải thiện sức khoẻ nghề nghiệp và và an toàn.

Giảm nguyên liệu và năng lượng sử dụng

Do giá thành ngày một tăng của các nguyên liệu sử dụng cũng như hiện trạng ngày càng khan hiếm nước, không một doanh nghiệp nào có thể chấp nhận việc thải bỏ các tài nguyên này dưới dạng chất thải. Nước và năng lượng là đặc biệt quan trọng, đặc biệt với các doanh nghiệp sử dụng với khối lượng lớn.

Tiếp cận tài chính dễ dàng hơn

Các cơ quan tài chính ngày một nhận thức rõ sự nghiêm trọng của việc huỷ hoại môi trường và hienẹ dadng nghiên cứu các dự thảo dự án mở rộng hoặc hiện đại hoá mà trong đó các khoản vay đều được nhìn nhận từ góc độ môi trường. Các kế hoạch hành động về sản xuất sạch hơn sẽ đem lại hình ảnh môi trường có lợi về doanh nghiêpj của bạn tới các nhà cho vay, do đó sẽ tạo điều kiện tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn hỗ trợ tài chính.

Các cơ hội thị trường mới và được cải thiện

Việc nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về các vấn đề môi trường đã dẫn đến sự bùng nổ nhu cầu về sản phẩm xanh trên thị trường quốc tế. Chính vì vậy, khi bạn đã có những nỗ lực nhận thức về sản xuất sạch hơn, bạn sẽ có thể mở ra đựoc nhiều cơ hội thị trường mới và sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn và có thể bán ra với giá cao hơn.

Các doanh nghiệp thực hiện sản xuất sạch hơn sẽ đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường, ví dụ như ISO14001, hoặc các yêu cầu của thị trường như nhãn sinh thái.

Thực hiện đánh giá sản xuất sạch hơn sẽ giúp cho việc thực hiện hệ thống quản lý môi trường như ISO 14001 dễ dàng hơn.

Tạo nên hình ảnh công ty tốt hơn

Sản xuất sạch hơn phản ánh và cải thiện hình ảnh chung về doanh nghiệp của bạn. Không cần phải nhắc lại, một công ty với hình ảnh “xanh” sẽ được cả xã hội và các cơ quan hữu quan chấp nhận dễ dàng hơn.

Môi trường làm việc tốt hơn

Việc nhận thức ra tầm quan trọng của một môi trường làm việc sạch và an toàn đang ngày một gia tăng trong số các công nhân. Bằng cách đảm bảo các điều kiện làm việc thích hợp thông qua thực hành sản xuất sạch hơn, bạn có thể làm tăng ý thức của các cán bộ, đồng thời xây dựng ý thức kiểm soát chất thải. Các hoạt động như vậy sẽ giúp cho doanh nghiệp của bạn đạt được khả năng cạnh tranh.

Tuân thủ luật môi trường tốt hơn

Các tiêu chuẩn môi trường về phát thải các chất thải (lỏng, rắn, khí) đang trở nên nagỳ một chặt chẽ hơn. Để đáp ứng được các tiêu này thường yêu cầu việc lắp đặt các hệ thống kiểm soát ô nhiễm phức tạp và đắt tiền. Sản xuất sạch hơn hỗ trợ cho việc xử lý các dòng thải, và do đó doanh nghiệp sẽ tuân thủ các tiêu chuẩn thải một cách dễ dàng, đơn giản và rẻ tiền hơn. Sản xuất sạch hơn dẫn dến việc giảm chất thải, giảm lượng phát thải và thậm chí giảm cả độc tố theo qui luật vòng tròn.

Những Bài Liên Quan:  Quy Dau Tu – San Xuat Sach – Moi Truong Xanh – Vay Tien

Quy Dau Tu-San Xuat Sach–Moi Truong Xanh-Vay Tien 


Thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất xanh hơn thông qua Quỹ Ủy thác tín dụng xanh

ThienNhien.Net – Phát triển bền vững bằng những công nghệ thân thiện với môi trường, đầu tư công nghệ mới, sử dụng năng lượng hợp lý… là những giải pháp quan trọng cần được hỗ trợ đầu tư mạnh mẽ, để đối phó với tình trạng suy thoái môi trường đang diễn ra ngày càng phức tạp. Việc Quỹ Ủy thác tín dụng xanh (Green Credit Trust Fund – GCTF) ra đời sẽ góp phần thúc đẩy các giải pháp này – bà Nguyễn Lê Hằng, điều phối viên GCTF tại Việt Nam, chia sẻ.

– Xin bà cho biết Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh có mặt tại Việt Nam khi nào?

Bà Nguyễn Lê Hằng: Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh (GCTF) được thành lập từ một sáng kiến hỗ trợ tài chính của Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO) dành cho các nước đang phát triển, nhằm thúc đẩy đầu tư trung và dài hạn vào công nghệ sạch hơn trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Mô hình này đã được SECO triển khai trước đó ở Colombia và Peru (thuộc nhóm quốc gia mục tiêu của chương trình hỗ trợ mà SECO dành cho các nước đang phát triển). Từ kinh nghiệm triển khai tại hai quốc gia này và qua khảo sát đặc điểm, hiện trạng hoạt động của ngành ngân hàng cũng như các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ, cuối năm 2007, SECO đã chính thức cho ra mắt Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh tại Việt Nam thông qua sự điều phối của Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam(VNCPC).

 – Liệu đây có phải là một hình thức tín dụng mới ở Việt Nam và có nhận được sự tham gia của các tổ chức tài chính trong nước?

Bà Nguyễn Lê Hằng: Cơ chế hoạt động của GCTF khá khác biệt so với các quỹ hỗ trợ về môi trường khác ở Việt Nam. Nguồn ngân sách của GCTF do SECO cung cấp (5 triệu USD) chỉ bao gồm 2 mục tiêu: hỗ trợ thế chấp thông qua bảo lãnh (2 triệu USD) và trả thưởng cho dự án hoàn thành (3 triệu USD).

Trong khi đó, điểm chung của hầu hết các quỹ khác là “có một nguồn vốn hoạt động riêng” được huy động từ nhiều nguồn khác nhau (như ngân sách nhà nước, nguồn vay tín dụng từ ngân hàng lớn, đối ứng của ban quản lý hay ban điều hành Quỹ, khoản hỗ trợ không hoàn lại từ các dự án, chương trình hợp tác phát triển do nước ngoài tài trợ, …) và do Ban quản lý quỹ điều hành.

Về cơ chế hỗ trợ tài chính, GCTF hỗ trợ bảo lãnh và trả thưởng sau khi dự án được thực hiện thành công, trong khi các quỹ khác cung cấp vốn vay với lãi suất ưu đãi. Nguồn tín dụng cấp cho các dự án GCTF là từ các dòng ngân sách dành cho tín dụng khối khách hàng doanh nghiệp của ba ngân hàng thương mại được VNCPC lựa chọn làm đối tác gồm ACB, Techcombank, và VIB.

– Xin hỏi, tại sao lại là tín dụng XANH?

Bà Nguyễn Lê Hằng: “Xanh” ở đây mang hàm ý về môi trường. Tác động môi trường mà GCTF quan tâm bao gồm: phát thải CO2 (thông qua giảm tiêu thụ nhiên liệu và điện năng), phát thải ODS, PTS, giảm sử dung nước sạch, BOD, COD, TOC, bụi ngoài trời PM10, … Tính chất “xanh” còn thể hiện ở tiêu chí lựa chọn dự án. Dự án thay đổi thiết bị hay công nghệ phải hướng tới việc giảm một chỉ thị tác động xấu đến môi trường ít nhất 30% so với hiện trạng hoặc nếu là trường hợp đầu tư một dây chuyền sản xuất mới thì công nghệ được lập dự án phải thể hiện tính ưu việt về bảo vệ môi trường so với một dự án đầu tư sản xuất thông thường. Bên cạnh đó, GCTF khích lệ doanh nghiệp đầu tư để cải thiện môi trường đạt mức cao hơn so với mức cơ bản đươc pháp luật quy đinh.

Một số dự án đã được thực hiện trong khuôn khổ của Quỹ đã giúp các công ty ứng dụng công nghệ tiến tiến để giảm điện năng tiêu thụ hoặc giảm lượng nước sạch phải khai thác cho sản xuất và lượng phát thải CO2 do tận dụng được năng lượng tái tạo (sinh khối, mặt trời).

– Xin bà cho biết những đối tượng nào sẽ được Quỹ ưu tiên?

Bà Nguyễn Lê Hằng: Nhóm đối tượng mục tiêu của Quỹ, xét về quy mô,  là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam có vốn điều lệ dưới 5 triệu USD (trong đó vốn trong nước chiếm ít nhất 51%) và số lượng công nhân viên dưới 1.000 người. Còn với tiêu chí ngành nghề, nhóm mục tiêu bao gồm tất cả các doanh nghiệp có sản xuất công nghiệp (bao gồm cả chế biến nông sản) và một số ngành dịch vụ.

Để tiếp cận GCTF, các DN sẽ phải đệ trình kế hoạch kinh doanh và trải qua các quy trình xét duyệt như: thông qua 3 ngân hàng để vay vốn theo quy trình thực hiện của các ngân hàng này, thông qua Trung tâm sản xuất sạch (VNCPC) xem xét, đánh giá về kỹ thuật của các dự án đầu tư, xác định hiện trạng môi trường trước khi đầu tư và đánh giá mức độ cải thiện môi trường sau khi lắp đặt công nghệ sản xuất mới và thông qua SECO để ký duyệt khi có đầy đủ kết luận của VNCPC và ngân hàng.

– Cho đến thời điểm này, đã có bao nhiêu dự án được hưởng lợi từ GCTF?

Bà Nguyễn Lê Hằng: Quỹ đã nhận được khoảng 50 hồ sơ đăng ký dự án, trong số này có 30 dự án đạt được các điều kiện sàng lọc ban đầu. Từ đó có 18 dự án đã được phê duyệt kỹ thuật và hiện tại có 7 dự án đã giải ngân và 4 dự án đã được trả thưởng. Dự án có giá trị tín dụng lớn nhất là 970.000USD và được trả thưởng ở mức 15%. Ở chiều ngược lại là dự án được giải ngân 101.942USD và được trả thưởng ở mức 25%..

Đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ theo khuôn khổ GCTF nằm trong khuôn khổ tiếp cận sản xuất sạch hơn. Áp dụng cách tiếp cận này sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được tài chính thông qua giảm lãng phí năng lượng và nguyên vật liệu; thu hồi, tái sử dụng được nhiều loại phế phẩm; cải thiện điều kiện làm việc và sức khỏe, giảm phát thải ra môi trường; cải thiện hình ảnh doanh nghiệp và mở ra cơ hội thị trường mới, đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Vì thế việc “xanh” hơn do thực hiện sản xuất sạch hơn là yếu tố quan trọng để các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững, hội nhập quốc tế, đồng thời mang lại lợi ích cho cộng đồng xung quanh.

– Xin chân thành cảm ơn bà!

Những Bài Liên Quan:  Quy Dau Tu – San Xuat Sach – Moi Truong Xanh – Vay Tien

Quy Dau Tu-San Xuat Sach–Moi Truong Xanh-Vay Tien

GCTF tham gia chợ công nghệ lớn nhất Việt Nam

Tối 20/9 vừa qua tại Hà Nội, Chợ công nghệ và thiết bị quốc tế Việt Nam 2012 đã khai mạc tại Cung văn hóa Hữu nghị thu hút 479 đơn vị tham gia với tổng số 520 gian hàng (trong đó có hơn 30 gian hàng của nước ngoài), giới thiệu chào bán hơn 3000 công nghệ thiết bị chủ yếu thuộc các lĩnh vực: cơ khí – chế tạo máy, điện – điện tử – tự động hóa, công nghệ thông tin, hóa chất – vật liệu – dược phẩm – y tế – xử lý môi trường, nông – lâm – thủy sản – chế biến thực phẩm… Một số sản phẩm công nghệ nổi bật: tàu đệm khí, công nghệ trồng rau không cần đất, tôi hóa thủy tinh, máy gieo hạt chân không… thu hút nhiều sự chú ý.

Đây cũng là chợ công nghệ lớn nhất từ trước đến nay. Từ năm 2003, Bộ KHCN phối hợp với UBND các tỉnh thành và các bộ ngành tổ chức 4 kỳ Techmart, thu hút 2000 đơn vị tham gia với hàng vạn thiết bị công nghệ được chào bán, hơn 7000 hợp đồng được ký kết với giá trị hơn 8000 tỷ đồng.

Quỹ Ủy thác Tín dụng Xanh (GCTF) với sự điều phối của Trung tâm sản xuất sạch hơn VNCPC đã được giới thiệu tại Techmart 2012 như một nguồn quỹ hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện quá trình đổi mới công nghệ. Đây là quỹ tín dụng được thành lập bởi Cục kinh tế Liên bang Thụy Sỹ hoạt động với mục tiêu thúc đẩy đầu tư trung và dài hạn cho công nghệ sạch hơn nhằm giảm thiểu tác động đến môi trường và đóng góp cho sự phát triển bền vững công nghiệp Việt Nam. Hoạt động chủ yếu của quỹ là hỗ trợ thế chấp thông qua bảo lãnh 50% và trả thưởng cho dự án hoàn thành tối đa 25% giá trị khoản vay sau khi đánh giá tác động việc thay đổi công nghệ đối với môi trường.

Sự có mặt của GCTF tại Techmart 2012 được xem như giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp muốn vay vốn đầu tư vào công nghệ mới nhưng không đủ khả năng thế chấp ngân hàng.

Techmart 2012 tiếp tục diễn ra đến hết ngày 23/9, bên lề hội chợ còn diễn ra các hội thảo khoa học, trong đó đáng chú ý là “Hội thảo quốc tế về nghiên cứu đổi mới trong công nghệ xanh và an ninh lương thực” với sự tham gia của các đơn vị nước ngoài nhằm chia sẻ kinh nghiệm thúc đẩy ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong các hoạt động đổi mới sáng tạo và sản xuất kinh doanh.

Những Bài Liên Quan:  Quy Dau Tu – San Xuat Sach – Moi Truong Xanh – Vay Tien

 

Quy Dau Tu-San Xuat Sach–Moi Truong Xanh-Vay Tien

Công nghệ mới: Lò đốt gạch không khói

Những Bài Liên Quan:  Quy Dau Tu – San Xuat Sach – Moi Truong Xanh – Vay Tien

Quy Dau Tu-San Xuat Sach–Moi Truong Xanh-Vay Tien

Công nghệ mới: Lò đốt gạch không khói

 

Một doanh nghiệp trong khu công nghiệp Tân Thành, tỉnh Bình Phước áp dụng tiến bộ khoa học, cải tiến kỹ thuật, sản xuất sạch hơn, đốt gạch không khói, tạo ra sản phẩm thân thiện với môi trường.

​ Chia sẻ với chúng tôi, Giám đốc Trần Văn Chiến bộc bạch, trước kia mặc dù sản xuất bằng công nghệ cũ nhưng Công ty TNHH Sản xuất vật liệu xây dựng và Khai thác nguyên liệu Thái Bình (Công ty Thái Bình) vẫn phát triển tốt nhờ nhu cầu xây dựng, nhất là gạch bán giá cao, do ít cạnh tranh.

Tuy nhiên, vài năm sau đó, công ty càng đầu tư mở rộng kinh doanh càng lỗ, vì chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao, không cạnh tranh nổi với gạch Ðồng Nai, Lâm Ðồng đổ về. Ðời sống của công nhân không được cải thiện. Lương bình quân chỉ 1,2 đến 1,4 triệu đồng/tháng. Nhiều công nhân đã đầu quân cho doanh nghiệp khác, có thu nhập cao hơn. Trước tình hình đó, công ty quyết tâm đầu tư thay đổi công nghệ, xây lò kiểu đứng, cơ giới hóa tối đa từ khâu sản xuất gạch phơi, sấy và đặc biệt lò nung kiểu mới nhất. Mục tiêu là giảm ô nhiễm môi trường, tiết kiệm nhiên liệu, giảm chi phí đầu vào, giải phóng sức lao động, tăng thu nhập và nâng cao đời sống công nhân.
Khi được hỏi về nguồn gốc lò gạch kiểu này, anh Chiến cho biết, lò gạch đứng được xây dựng ở một vài khu công nghiệp phía bắc. Do đó, anh lặn lội ra bắc tìm hiểu và mời một số chuyên gia ở các trường đại học tư vấn. Anh quyết tâm học bằng được cách xây lò đứng và làm chủ công nghệ này. Vì vậy, khi nắm chắc bí quyết công nghệ, anh mạnh dạn phá lò cũ và xây lò gạch mới, kiểu đứng, chuyên sản xuất gạch đặc và gạch ống bốn lỗ, công suất 12 triệu viên/năm. Ưu điểm của kiểu lò đứng là phù hợp các tiêu chuẩn về môi trường, giảm tiếng ồn, khói bụi và độ nóng.
Chi phí cho toàn bộ dự án lò gạch kiểu đứng là hơn bốn tỷ đồng, so với lò truyền thống là hơi cao. Nhưng bù lại công ty tiết kiệm hơn 40% nhiên liệu than; tất cả đã tự động hóa; môi trường làm việc trong sạch; công nhân không trực tiếp bốc vác, nên giữ được sức khỏe, do đó năng suất lao động tăng hơn bốn lần… Nhờ có tăng năng suất lao động mà giá cả cạnh tranh, sản phẩm được khách hàng tín nhiệm, lương công nhân tăng từ 1,2 triệu đồng/tháng lên 4,5 triệu đồng/tháng. Người lao động yên tâm làm việc. Ông Trần Văn Chiến khoe việc áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất sạch trong công nghiệp được Hội đồng khoa học tỉnh Bình Phước công nhận và khuyến khích đầu tư. Công ty sẽ tiếp tục nghiên cứu, cải tiến và đưa vào sản xuất hàng loạt gạch không nung, bằng công nghệ pô-li-me vô cơ, đáp ứng nhu cầu vật liệu xây dựng sạch, bảo vệ môi trường.
Mô hình sản xuất gạch theo công nghệ không nung của Công ty Thái Bình là công nghệ sản xuất gạch sạch, đốt không khói, đáp ứng nhu cầu vật liệu xây dựng sạch. Ðây là mô hình cần được nhân rộng.
(Theo NASATI)

Công nghệ mới

Công nghệ sản xuất xi măng của Nhật Bản

Công ty thiết kế Taiheiyo là một trong những công ty nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị cơ khí cho công nghiệp xi măng của Nhật Bản. Đáp ứng cho những yêu cầu thực tế ngày càng cao trong công nghệ sản xuất xi măng, ông ty thiết kế Taiheiyo đã nghiên cứu thiết kế một số thiết bị công nghệ mới như: Hệ thống buồng tiền nung RSP mới nhất; hệ thống nhánh trích khí Clo mới nhất; Máy phân li khí hiệu suất cao O-Sepa. Trong bài này giới thiệu sự phát triển hệ thống buồng tiền nung RSP mới nhất để đốt 100% nhiên liệu khó cháy và Máy phân li khí hiệu suất cao O –Sepa.

Do các điều kiện kinh tế có và giá bán xi măng thấp trên thị trường thế giới, nên có rất nhiều cố gắng để làm sao giảm giá thành xi măng sản xuất. Một trong những biện pháp này là giảm chi phí nhiên liệu sử dụng. Việc này đã thúc đẩy công ty thiết kế Taiheiyo phát triển hệ thống tiền nung RSP mới nhất (tháp trao đổi nhiệt tầng sôi tăng cường), để có thể sử dụng 100% nhiên liệu có chất lượng kém và giá thấp như than antraxit, FOC và DOC (sản phẩm phụ từ chế biến dầu mỏ). Đốt bằng các nhiên liệu khó cháy sẽ rẻ hơn và chúng có nhiệt trị cao nếu so sánh với loại than bình thường, nhưng đồng thời các nhiên liệu này có chất bốc cháy thấp và có đặc tính tốc độ cháy chậm.

Hệ thống tiền nung RSP mới nhất (tháp trao đổi nhiệt tầng sôi tăng cường) này đem thuận lợi cho việc tận dụng các loại nhiên liệu có chất lượng thấp và giá rẻ, vì vậy cho phép làm giảm giá nhiên liệu cũng như chi phí sản xuất xi măng. Thành công này không những làm giảm giá nhiên liệu để sản xuất xi măng mà còn giúp hướng tới giữ gìn nguồn nhiên liệu và kéo dài tuổi thọ các mỏ nhiên liệu tự nhiên (than). Những nhiên liệu chất lượng thấp, giá rẻ cũng nằm trong những loại nhiên liệu khó cháy như than antraxit (nguồn tại địa phương), FOC (than cốc dầu lỏng) và DOC (than cốc dầu lưu) từ các sản phẩm phụ của công nghiệp lọc dầu mỏ. Các nhiên liệu khó cháy nêu trên có giá rẻ và có nhiệt trị cao nếu so sánh với loại than bình thường, nhưng đồng thời chúng có chất bốc thấp và với đặc điểm tốc độ cháy chậm. Dễ dàng đốt cháy các nhiên liệu khó cháy trong lò quay vì thời gian lưu dài và nhiệt độ cao có thể đạt được tại dôn đốt đầu tiên. Nhưng những nhiên liệu này lại khó đốt trong hệ thống trao đổi nhiệt do khó giữ thời gian lưu dài và nhiệt độ cao tại dôn đốt đầu tiên.

Một đặc điểm đặc trưng của than bitum thông thường cũng được giới thiệu để dễ dàng so sánh. Cả ba loại nhiên liệu khó cháy này đều có hàm lượng chất bốc thấp so với than bitum thông thường. Mặt khác than cốc dầu FOC và DOC lại có hàm lượng sunfua cao nếu so với than antraxit và than bitum thông thường. Cả ba loại nhiên liệu khó cháy này đều có nhiệt trị cao hơn nhiều, nhưng tốc độ cháy chậm, vì vậy đòi hỏi nhiệt độ bốc cháy cao hơn ngay từ đầu so với than bình thường.

Công nghệ nguyên khai đốt cháy 2 giai đoạn trong RSP:

Nhìn chung mặc dầu khó khống chế nhiệt độ tâm ngọn lửa trong buồng tiền nung, chúng ta đã không gặp phải khó khăn như vậy trong việc giữ nhiệt độ cao vì hệ thống buồng tiền nung RSP là hệ thống có hai giai đoạn cháy. Gió 3 được cấp vào buồng tiền nung RSP bằng 2 con đường khác nhau. Nếu cần thiết độ cao hơn trong RSP, có thể đơn giản mở van của của vòi đốt Swirl (SB). Nhờ tăng khối lượng khí 3 qua van SB thì việc đốt cháy ban đầu (đốt cháy các chất bốc) của nhiên liệu sẽ được tăng cường do có hàm lượng O2 cao hơn, dẫn đến đạt nhiệt độ cao trong buồng RSP. Và việc đốt cháy ban đầu được thực hiện không có hỗn hợp bột nhiên liệu từ những tầng xiclôn dưới cùng. Có sự liên kết rất rõ giữa “góc mở của van SB” và “nhiệt độ tâm trong RSP” được biểu diễn bằng giản đồ. Giản đồ này đã được thực hiện qua việc vận hành thực tế trong suốt giai đoạn đầu của sự phát triển RSP trong mấy năm qua. Từ giản đồ này thấy rằng có thể dễ dàng đạt được nhiệt độ tâm ngọn lửa cao trong RSP nếu tăng độ mở của van SP cũng như tăng nhiệt độ gió 3 từ máy làm lạnh clinker.

Công nghệ buồng tiền nung mới nhất để đốt nhiên liệu khô cháy:

Chú ý tới các đặc tính cơ bản cho đốt than antraxit đơn như “bắt lửa khó và tốc độ cháy chậm” và công nghệ đốt 2 giai đoạn của thiết kế nguyên khai RSP, các nguyên tắc yêu cầu hiết kế về buồng tiền nung mới nhất để đốt nhiên liệu khó cháy bao gồm:

– Tăng thời gian lưu dôn tiền nung (để đạt được cháy hoàn toàn).

– Có khoảng không gian từ đầu và cuối vòi đốt tới đầu vào của bột liệu (để đạt được đốt cháy hoàn toàn).

– Phân phối bột liệu vào buồng tiền nung trong 2 vị trí khác nhau (để tối ưu hoá điều kiện đốt trong buồng tiền nung). Có sự khác nhau giữa RSP truyền thống và buồng tiền nung RSP mới nhất để đốt than antraxit đơn. Khi so sánh với RSP truyền thống, buồng tiền nung RSP mới nhất để đốt than antraxit đơn có một ống dẫn kéo dài lên cho đầu ra của buồng trộn tới đầu vào của xiclôn tầng dưới cùng và phần kéo dài phía dưới của buồng tiền nung. Nhiệt độ của dôn nung trong buồng tiền nung cao hơn so với điều kiện chuẩn trong RSP truyền thống. Chính là do buồng tiền nung đã được vận hành không có sự phân phối bột liệu từ xiclôn tầng gần dưới cùng và cấp cho chỉ phần dưới của buồng tiền nung như của RSP truyền thống. Các số liệu khác giống như RSP truyền thống. Do sử dụng thành công các nhiên liệu khó cháy đã giúp cho giảm chi phí sản xuất cũng như hỗ trợ chủ trương bảo tồn các mỏ nhiên liệu than tự nhiên. Với việc thành công đốt cháy 100% than antraxit đã mở đường cho việc sử dụng công nghệ đốt cháy 100% than cốc dầu. Mới đây, nhánh trích khí Clo đơn giản đã cải tiến và được áp dụng, khi có yêu cầu để hệ thống này khắc phục sự dư thừa khí Sunfua, Clo,,,Hệ thống buồng tiền nung RSP mới nhất đảm bảo vận hành liên tục và ổn định khi chỉ dùng 100% các loại hình nhiên liệu khó đốt cháy bởi các đặc điểm vượt trội của hệ thống RSP mới nhất này.

Thiết bị phân li khí hiệu suất cao O-Sepa

Thiết bị phân li khí hiệu suất cao O-Sepa được phát triển bởi Công ty xi măng Taiheiyo và được sử dụng thành công trong các nhà máy xi măng là một thiết bị phân li khí lớn, hiệu suất cao có thể xử lý một lượng lớn bột liệu trong một thiết bị gọn, cho phép giảm giá đáng kể chi phí ban đầu và chi phí vận hành trong sản xuất xi măng. Nó còn cho phép phân li chính xác các sản phẩm mịn với nhiệt độ thấp hơn so với thiết bị phân li khí truyền thống. Điều này cho phép sản xuất xi măng chất lượng cao với chi phí thấp đáng kể.

Thiết bị phân li khí truyền thống thường sử dụng trong công nghiệp xi măng không có một lượng khí đồng nhất để phân li và cũng không có điều kiện thay đổi đồng bộ các vật liệu trong buồng phân li. Điều này làm cho hiệu quả phân li trong các thiết bị này rất kém. Và kích thước các thiết bị nghiền và phân li trở nên lớn hơn, người ta hy vọng rằng các thiết bị sản xuất đại trà có hiệu quả cao với giá thành ban đầu giảm và cho phép sản xuất xi măng chất lượng cao với chi phí vận hành giảm giá đáng kể.

Để giải quyết các vấn đề này, Công ty xi măng Taiheiyo đã phát triển thiết bị phân li khí O-Sepa và hệ thống áp dụng chúng, cho phép duy trì hiệu quả phân li cao nhất tương ứng với kích thước của nó. Nó có một cơ chế độc đáo đảm bảo 2 bước xoáy dòng khí trong buồng phân li, điều này đảm bảo sự phân li chính xác trong một thể tích rất gọn, thay vì sự vận hành trong các điều kiện khí rắn đậm đặc cao.

Công nghệ O-Sepa có các đặc tính sau:

– Việc ngắt rất chính xác không thể có được trong máy phân li truyền thống thì nay có thể thực hiện được bằng một cơ cấu phân li duy nhất.

– Trong trường hợp sử dụng cho xi măng, sư phân bố cỡ hạt được cải thiện làm cho cường độ cao hơn ngay cả khi có bề mặt diện tích riêng thấp.

– Hiệu quả phân li cao dẫn tới hiệu quả nghiền cao và tiêu hao năng lượng thấp.

– Cỡ hạt mịn rất dễ dàng lựa chọn bằng cách đơn giản điều chỉnh vận tốc quay, như vậy rẩt phù hợp với một hệ thống nghiền nhiều loại sản phẩm khác nhau.

– Một khối lượng lớn khí lạnh được sử dụng cho phân ly làm cho nhiệt độ sản phẩm thấp hơn.

– Khi chứa nhiều bụi từ hệ thống nghiền được sử dụng để phân li làm cho hệ thống đơn giản hơn.

– Hệ thống O-Sepa gọn hơn so với phân li truyền thống. O-Sepa rất lý tưởng để phân li các vật liệu như tất cả các loại xi măng, nguyên liệu ximăng, đá vôi, đá sét, xỉ, than đá, trobay và cốc.

Khi sử dụng thiết bị phân li O-Sepa sản xuất các sản phẩm xi măng sẽ đạt:

1. Hiệu suất phân li tuyệt vời, công suất máy nghiền có thể tăng thêm 5-10%, như vậy giảm tiêu hao năng lượng.

2. Do khí chứa bụi cao được sử dụng như là khí phân li, một khối lượng khí lớn được thoát ra từ máy nghiền và như vậy nhiệt độ của xi măng xuống thấp.

3. Một khối lượng vật liệu lớn có thể được xử lý trong một thiết bị rất gọn.

4. Sự phân bố cỡ hạt xi măng được cải thiện, góp phần làm tăng mác xi măng, do vậy diện tích bề mặt riêng của sản phẩm mịn có thể giảm xuống (5-10%).

5. Độ mịn của sản phẩm có thể dễ dàng điều chỉnh trong một dải rộng (từ 2.000đến 7.000cm2/g) bằng cách đơn giản thay đổi vận tốc quay

Nguồn  Hiệp hội Xi măng Việt Nam.

 

Những Bài Liên Quan:  Quy Dau Tu – San Xuat Sach – Moi Truong Xanh – Vay Tien

Quy Dau Tu-San Xuat Sach–Moi Truong Xanh-Vay Tien

Sáng kiến xử lý nước thải làng nghề chế biến giấy

Tóm tắt: Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, bộ mặt nông thôn cũng có nhiều đổi mới do có sự đóng góp của kinh tế các làng nghề. Bên cạnh thành tựu về kinh tế, làng nghề đã và đang gây ra các hậu quả nghiêm trọng về mặt môi trường.
Theo dự báo, ô nhiễm nước ở các làng nghề sẽ còn diễn biến phức tạp nếu không kịp thời và kiên quyết áp dụng các giải pháp quản lý và kỹ thuật. Bài báo này trình bày về một trong những giải pháp kỹ thuật xử lý ô nhiễm nước tại các làng nghề chế biến giấy, đó là “Sáng kiến xử lý nước thải làng nghề chế biến giấy với giá thành phù hợp với mức thu nhập trung bình của người dân”. Kết quả đưa ra hệ thống xử lý nước với hiệu suất tốt, dễ vận hành, bảo quản và có giá thành rất phù hợp với túi tiền của người lao động ở các làng nghề chế biến giấy.

I. Giới thiệu
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, môi trường của không ít làng nghề suy thoái trầm trọng và tùy theo loại hình sản xuất mà môi trường ở các làng nghề chịu sự ô nhiễm khác nhau. Hiện na, việc xử lý ô nhiễm môi trường nói chung và xử lý ô nhiễm môi trường nước nói riêng đã và đang được rất nhiều các nhà khoa học quan trâm nhằm đưa ra giải pháp thích hợp xử lý ô nhiễm.
Trong các công đoạn của công nghệ tái chế giấy, nước thải công đoạn ngâm, tẩy, nghiền trong tái chế giấy chiếm khoảng 50% tổng lượng thải, chưa nhiều hóa chất như xút, nước giaven, phèn, nhựa thông, phẩm màu, xơ sợi. Nước thải thường chứa nhiều bột giấy, lượng cặn có thể lên tới 300 – 600 mg/l.
Theo các kết quả khảo sát cho thấy, nước thải sản xuất tại các làng nghề có COD, BOD5, SS vượt TCVN từ 1,5 – 15 lần.
Trong số các làng nghề tái chế giấy có làng nghề Dương Ổ và Phú Lâm ở Bắc Ninh là hai làng nghề có quy mô sản xuất lớn. Tổng khối lượng nước thải lên tới 3500 m3/ngày. Hàng ngày đã thải vào nguồn nước mặt khoảng 1.450 – 3000 kg COD và 3000 kg bột giấy.
Tại các làng nghề tái chế giấy này, công nhân và người lao động bị mắc các bệnh về hô hấp, bệnh ngoài da và thần kinh rất cao. Ví dụ như tại xã Phong Khê ( Bắc Ninh), tỷ lệ người mắc bệnh hô hấp ngoài da, đường ruột có xu hướng tăng nhanh, nếu như năm 2001 mới chỉ có khoảng 200 người mắc bệnh thì năm 2004 đã có gần 400 người. Đây thực sự là hồi chuông báo động về sức khỏe người dân làng nghề.
Trước thực trạng như vậy, việc các nhà khoa học, các chuyên gia phải đi vào nghiên cứu các phương án kỹ thuật phù hợp với điều kiện kinh tế của người dân làng nghề chế biến giấy, giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường là rất cần thiết. Nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ Vũ Chí Cường làm chủ nhiệm đề tài, cố vấn PGS. TS Trần Hồng Côn đã đề xuất và đưa ra được một hệ thống xử lý nước thải mini tại làng nghề chế biến giấy, với hiệu suất xử lý cao, giá cả vận hành và bảo dưỡng phải chăng dựa trên phương pháp sinh học.

II. Quy trình công nghệ
Các loại nước thải của làng nghề tương đối đa dạng. Đối với nước thải làng nghề chế biến giấy (chủ yếu là tái chế giấy để làm giấy vệ sinh), dòng dịch đen không nhiều trong dòng thải chung, nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ Vũ Chí Cường làm chủ nhiệm đề tài, cố vấn là PGS.TS Trần Hồng Côn đã đề xuất thiết kế và chế tạo hệ thống đồng bộ xử lý nước thải mini của làng nghề giấy như sau:

Hình 1. Sơ đồ công nghệ xử lý nước thải mini của làng nghề gỗ và giấy.
Ở đây có thể chia thành 3 trường hợp khác nhau:
+ Trường hợp 1: Nước thải không có màu: Nước thải từ dây chuyền chế biến giấy chưa qua xử lý được đưa vào bể khuấy I tại đây ta cho vào chất để trung hòa kiềm là axit H2SO4 và một số chất xúc tác khác. Tại đây nhờ lực ly tâm và trọng lượng nên phần chất thải rắn được lắng xuống và tháo ra ngoài, phần nước được tràn qua bể keo tụ II. Tại bể II những chất rắn lơ lửng (SS) và chất hữu có dễ phân hủy BOD được keo tụ lại và phần nước được tràn sang bể lắng III. Tại bể lắng III bùn sơ sợi được tháo ra để tái sử dụng còn nước tháo ra ao, hồ đạt tiêu chuẩn B theo QCVN 14: 2008/BTNMT.
+ Trường hợp 2: Nước thải có màu thì tại bể I ta cho thêm cacbon hoạt tính để hấp phụ màu và một số phụ gia khác và quá trình tương tự như trên.
+ Trường hợp 3: Nước thải có màu và hàm lượng tinh bột cao (COD cao) thì ta cần có thêm sơ đồ sau đây để tiếp tục xử lý sau khi ra khỏi bể III:

Hình 2: Sơ đồ xử lý nước thải bổ sung khi có màu và hàm lượng tinh bột cao (COD cao)
Tại bể IV ta bổ sung vi chất và sục không khí, tại đây hàm lượng tinh bột sẽ bị xử lý sau đó nước tiếp tục được tràn vào bể V. Tại bể V bùn vi sinh lắng xuống dưới và được thải ra ngoài, một phần nước dưới đáy được bơm quay vòng về bể vi sinh hiếu khí IV. Nước sau bể V thải ra ngoài đạt tiêu chuẩn B.
Điều quan trọng là các vật liệu và thiết bị trên đây có thể xem là đơn giản và rẻ tiền nhất trong các phương án công nghệ xử lý nước thải ở dạng mini, người dân có thể tự làm được dưới sự hướng dẫn của nhóm chuyên gia. Mặt khác, nhưng thiết bị này có thể làm bánh xe để di chuyển cơ động khi thay đổi mặt bằng hoặc thay thế dễ dàng. Loại vật liệu để chế tạo các bể mini cơ động này có thể là thép CT3 theo nguyên tắc xếp chồng, hoặc có thể xây bể bằng gạch trong trường hợp diện tích mặt bằng lớn và hệ thống xử lý cố định. Đồng thời trong trường hợp muốn tiết kiệm chi phí để chế tạo có thể hợp khối các bể xử lý lại với nhau rất đơn giản mà lại đạt hiệu quả về mặt kinh tế.
Hiện nay, sáng kiến áp dụng hệ thống này cho việc xử lý nước thải làng nghề chế biến giấy đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt trong đề tài cấp Bộ mang tên “Nghiên cứu thiết kế và chế tạo hệ thống đồng bộ xử lý nước thải, bụi và khí thải cho các làng nghề chế biến gỗ, giấy” do Tiến sĩ Vũ Chí Cường làm chủ nhiệm và dự kiến sẽ áp dụng xử lý cho các cơ sở chế biến giấy tại làng nghề Đào Xá (Bắc Ninh).

III. Kết luận
Tại các làng nghề truyền thống, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, mặt bằng sản xuất chật chội và tổ chức sản xuất thiếu khoa học. Điều kiện và môi trường lao động rất đáng lo ngại, người lao động thường xuyên phải tiếp xúc với bụi, nhiệt và hóa chất, nguy cơ tai nạn lao động cao và thiếu phương tiện bảo vệ cá nhân. Môi trường sống đang có nguy cơ bị ô nhiễm do chất thải sản xuất không được xử lý mà thải trực tiếp vào môi trường xung quanh, gây ô nhiễm không khí, nước và đất. Sức khỏe người lao động và dân cư đang bị đe dọa do ô nhiễm môi trường. Bệnh tật phổ biến tại các làng nghề là viêm phế quản – phổi, dị ứng ngoài da, đau mắt, đau lưng, đau cột sống, đau bụng hội chứng dạ dày, phụ khoa … Việc đưa ra quy trình công nghệ xử lý nước thải làng nghề chế biến giấy với quy mô nhỏ sẽ góp phần giúp giảm thiểu ô nhiễm tại đây, cải thiện một cách đáng kể chất lượng cuộc sống của người lao động. Việc lắp đặt, vận hành và bảo dưỡng một hệ thống mini như thế này không phải quá khó đối với mỗi người dân bình thường. Ngoài ra chi phí đầu tư cho mỗi hệ thống không hề đắt, rất phù hợp với túi tiền của người dân mà hiệu suất xử lý không hề thấp. Trong tương lai gần, nếu hệ thống này được áp dụng một cách rộng rãi tại các làng nghề chế biến giấy sẽ góp một phần không nhỏ vào việc cải thiện chất lượng môi trường nước tại các làng nghề truyền thống này.

Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2008, “Môi trường làng nghề Việt Nam”, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
2. Đặng Kim Chi, Nguyễn Ngọc Lân, Trần Lệ Minh, Làng nghề Việt Nam và Môi trường – NXB KHoa học và Kỹ thuật, 2005.
3. Trần Hồng Côn, Đồng Kim Loan, Công nghệ xử lý khí thải, NXB Khoa học kỹ thuật, 2009.
4. Vũ Thị Thanh Hương, Nghiên cứu các biện pháp cải thiện môi trường cho làng nghề tái chế giấy, Dự án hợp tác với Cộng hòa Séc và Canada, 2007…

Tác giả: TS. Vũ Chí Cường – KS. Trần Ngọc Hương. Viện Bơm và Thiết bị Thủy lợi. Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam.
Nguồn: Tạp chí “Tài nguyên nước”

Đổi mới công nghệ để tiết kiệm điện

Số liệu kiểm toán từ ngành điện cho thấy, hiện các Khu công nghiệp và Chế xuất (KCN) đang tiêu thụ một lượng điện chiếm từ 20% đến trên 50% sản lượng điện của mỗi địa phương trong cả nước. Đà Nẵng với 6 KCN đã tiêu thụ tới 48% sản lượng điện toàn thành phố.
Do công nghệ, thiết bị còn lạc hậu nên tiêu hao điện năng cho một đơn vị sản phẩm rất lớn, chi phí năng lượng trong cơ cấu giá thành sản phẩm của các ngành công nghiệp còn cao. Đặc biệt sản xuất thép, xi-măng, dệt may… là những ngành tiêu thụ điện rất lớn. Ở Đà Nẵng, cơ sở sản xuất xi-măng chưa nhiều (gần 1 triệu tấn/năm) nhưng đã tiêu thụ khoảng 3% sản lượng điện toàn thành phố. Tổng cộng 2 ngành sản xuất thép và xi-măng một năm tiêu thụ khoảng 13% sản lượng điện toàn thành phố. Việc tính giá điện mới vào ngày 1-3-2011, mặc dù đã được dự báo nhưng cũng buộc các đơn vị phải tính toán lại cơ cấu giá thành và có giải pháp nhằm tiết kiệm điện, tiết kiệm chi phí.
Điều đáng mừng là từ vài năm trở lại đây, các đơn vị trong ngành công nghiệp trước sức ép về chỉ tiêu tiêu thụ điện đã tích cực đổi mới thiết bị, công nghệ tiên tiến hơn để giảm tiêu hao điện năng. Đối với Công ty CP Xi-măng Hải Vân, việc tiết kiệm điện đã được quan tâm từ nhiều năm. Ông Bùi Viết Minh, Giám đốc công ty cho biết, đến nay sản phẩm xi-măng Hải Vân được sản xuất trên dây chuyền công nghệ đồng bộ, hoàn toàn tự động, do CHLB Đức chế tạo và cung cấp. Tiết kiệm điện luôn được coi là giải pháp quan trọng trong hàng loạt các biện pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm. Đồng thời với việc đổi mới thiết bị, công ty đã tổ chức lại sản xuất hiệu quả theo chế độ làm việc của thiết bị. Trong đó ưu tiên sản xuất vào giờ thấp điểm (giá điện giờ thấp điểm rẻ hơn từ 20% trở lên so với giờ bình thường).
Đối với ngành dệt may, ngoài việc đổi mới công nghệ, thiết bị thì việc tổ chức sản xuất vào giờ thấp điểm là việc làm khó. Hầu hết phải sản xuất vào các giờ cao điểm từ 6 giờ sáng đến 22 giờ nhằm bảo vệ sức khỏe cho công nhân. Theo tính toán của Công ty CP Dệt may 29-3, với việc tăng giá điện từ ngày 1-3-2011 và giá nước mới, mỗi tháng công ty sẽ phải chi phí thêm khoảng 50 triệu đồng. Ông Nguyễn Chánh, Giám đốc Công ty Dệt Hòa Khánh cho biết: Nhận biết được khó khăn trên, nên từ nhiều năm qua, công ty đã chi hàng tỷ đồng để đổi mới công nghệ, mua sắm các thiết bị cung cấp năng lượng như lò hơi, các thiết bị nhuộm và cung cấp nhiệt không dùng điện.
Năm 2010, công ty đã chi gần 10 tỷ đồng trong lộ trình đổi mới công nghệ thiết bị đến năm 2012, để thay thế toàn bộ các thiết bị cung cấp nhiệt, từ dùng điện sang dùng than hoặc củi, đã giảm được gần 50% chi phí nhiên liệu. Giá điện tăng và việc thắt chặt các chỉ tiêu cấp điện, đã buộc các doanh nghiệp sản xuất thép phải tính toán đến việc đổi mới công nghệ. Các Công ty Thép Đà Nẵng, Thép Dana – Ý… đặc biệt coi trọng việc mua thiết bị mới, với tính năng quan trọng nhất là tiết kiệm điện. Trong thời gian chờ đợi việc đổi mới thiết bị, các đơn vị sản xuất thép tập trung sản xuất vào ca 3 – giờ thấp điểm – để được hưởng giá ưu đãi, nhằm giảm giá thành.

Đặc biệt, có một số doanh nghiệp ý thức được vấn đề tiết kiệm điện năng từ sớm nên đã chuẩn hóa, hợp lý hóa, hiện đại hóa quá trình quản lý điện năng ngay từ khi xây dựng. Điển hình như Công ty CP Thủy sản và thương mại Thuận Phước. Ông Trần Văn Lĩnh, Giám đốc công ty cho biết: Ngay từ khi xây dựng nhà máy, công ty đã đầu tư hệ thống quản lý điều hành điện tự động và đầu tư thiết bị theo chuẩn của các nước tiên tiến. Hiện công ty là một trong số ít các đơn vị sản xuất của thành phố có chương trình này. Vì vậy, chi phí về điện chỉ chiếm khoảng hơn 1% so với chi phí toàn bộ. Dù vậy, việc tăng giá điện lần này, công ty sẽ phải chi thêm khoảng 1 tỷ đồng trong năm 2011.
Từ thực trạng tại các doanh nghiệp cho thấy, tiềm năng tiết kiệm điện trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp còn rất lớn. Điều đáng mừng là sau nhiều năm triển khai, đến nay hầu hết các doanh nghiệp đều đã tiến hành chương trình kiểm toán điện năng. Nhờ vậy, các đơn vị đã sắp xếp, tổ chức sản xuất hợp lý hơn, cũng như việc thay thế các thiết bị thắp sáng từ bóng đèn thường sang bóng đèn tiết kiệm điện (compact) nên cũng giảm đáng kể chi phí về điện trong giá thành sản phẩm. Về lâu dài, đây cũng là giải pháp quan trọng để các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, thiết bị nhằm tiết kiệm điện, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng.
Nguồn: Báo Đà Nẵng

Khóa tập huấn tại Sơn La – Giải pháp năng lượng mới cho DN chế biến

Sơn La là tỉnh có số giờ nắng cao nhất ở các tỉnh miền núi phía Tây Bắc – vùng nhiều tiềm năng về năng lượng mặt trời thứ hai ở Việt Nam. Cùng với đó là lượng sinh khối từ lõi ngô hàng năm lên đến 100.000 tấn. Đó là những nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo to lớn và quý giá có thể được tận dụng cho nhu cầu chế biến nông nghiệp như sấy sắn, ngô, long nhãn,… hoặc dùng cho các doanh nghiệp chè ở địa phương. Trong chuyến tập huấn từ ngày 8 đến 10 tháng 8 năm 2012, nhóm cán bộ của dự án SPIN thuộc Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam đã giới thiệu đến Sở Khoa học Công nghệ Sơn La và một số doanh nghiệp tại địa phương giải pháp công nghệ và tài chính để nâng cao hiệu quả sản xuất và lợi nhuận.
Công nghệ được giới thiệu là công nghệ sấy sử dụng năng lượng mặt trời kết hợp với sử dụng bếp khí hóa nhiên liệu sinh khối giúp sử dụng năng lượng tiết kiệm và giảm phát thải khí nhà kính.
Giải pháp tài chính được giới thiệu là hỗ trợ của Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh (GCTF) dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam thông qua hai hình thức bảo lãnh (50% vốn vay tín dụng tại ngân hàng) và trả thưởng (tới 25% vốn vay tín dụng).
Các công ty tham gia khóa tập huấn:
1. Cty CP Chè Cờ đỏ,
2. Cty CP Chè Chiềng ve,
3. TCT Chè Việt Nam chi nhánh Mộc Châu,
4. Công ty mía đường Mộc Châu
5. Công ty rượu Việt Pháp
6. Các phòng của Sở khoa học công nghệ Sơn La


Chuyên gia của VNCPC giới thiệu về Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh tới các đại biểu


Chuyên gia của VNCPC đang trình diễn công nghệ bếp khí hóa


Chuyên gia của VNCPC khảo sát tại doanh nghiệp

Công ty CP Nhựa Tân Phú: Đổi mới công nghệ thân thiện với môi trường

Dự án “Đổi mới công nghệ và thiết bị sản xuất nắp chai chứa thực phẩm và vỏ bình ắc quy N25” của Công ty CP Nhựa Tân Phú (TP. Hồ Chí Minh) được thực hiện với hỗ trợ của Quỹ Ủy thác tín dụng xanh (GCTF). Nhờ đổi mới công nghệ, công ty đã tiết kiệm được chi phí, giảm tiêu hao điện năng đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực tới môi trường.

Công ty CP Nhựa Tân Phú là một doanh nghiệp nhựa hàng đầu, có uy tín trong ngành công nghiệp nhựa Việt Nam. Công ty chuyên sản xuất và kinh doanh các sản phẩm nhựa bao bì rỗng bằng nhựa PEHD, PET, các loại can, thùng rỗng, các loại két bia, nước ngọt, các loại chai nhiều lớp, vỏ bình ắc quy các loại. Công nghệ và máy móc thiết bị đang sản xuất đã qua nhiều năm sử dụng thuộc thế hệ cũ và đều sử dụng hệ thống thủy lực: Một động cơ công suất lớn sử dụng cho toàn bộ máy với nhiều chức năng khác nhau thông qua các bộ truyền động, do đó, tải của động cơ không đều nên hiệu suất của động cơ điện thấp, tiêu hao năng lượng cao. Những tác động tiêu cực đến môi trường của các máy thế hệ cũ là: Mỗi máy thải ra 400 lít dầu thủy lực/năm; Năng suất nhỏ, tiêu hao điện nhiều dẫn đến suất tiêu thụ điện lớn.


Áp dụng giải pháp SXSH tiết kiệm năng lượng, Công ty thực hiện lắp đặt bộ biến tần cho các máy đang hoạt động để giảm tiêu hao điện năng.
Trên cơ sở kết quả của chương trình SXSH và tiết kiệm năng lượng mà Công ty đã tham gia, chuyên gia của Trung tâm SXSVN và lãnh đạo Công ty đã xây dựng dự án đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện hơn với môi trường bằng thay đổi dòng máy thế hệ cũ ép thủy lực bằng ép điện. Mặt khác, hiệu suất làm việc của máy giảm dần theo thời gian làm việc vì dầu thủy lực khi hoạt động bị ma sát nóng lên nên làm giảm áp suất. Trong máy ép điện thế hệ mới, các chu kỳ hoạt động đựơc điều khiển riêng biệt bằng động cơ điện, đến chu kỳ nào thì động cơ điều khiển chu kỳ đó hoạt động, các động cơ khác không hoạt động nên công suất tiêu tốn giảm đi rất nhiều dẫn đến suất tiêu thụ điện năng/1 kg sản phẩm nhựa giảm đáng kể. Máy ép phun thủy lực sử dụng động cơ điện riêng cho từng bộ phận nên sử dụng điện không bị non tải vì khi bộ phận nào hoạt động thì động cơ của bộ phận đó khởi động. Công suất tiêu thụ thay đổi theo sự biến đổi tải. Trong giai đọan giữ áp suất, động cơ servo giảm tốc độ quay và tiêu thụ ít điện năng.
So với dòng máy ép thủy lực đang sử dụng tại hầu hết các nhà máy nhựa tại Việt Nam, máy thế hệ mới có nhiều ưu điểm vượt trội như sau: Tiết kiệm được điện năng; Tái sử dụng được 30 – 40% phế liệu nhựa; Thời gian vận hành cho một chu trình được rút ngắn do đó năng suất cao hơn; Sử dụng động cơ điện servo tiết kiệm năng lượng; Giảm lựơng nhớt thủy lực sử dụng cho hai máy ép điện.

Để đánh giá ưu điểm nổi bật này của dòng máy ép điện thế hệ mới, mỗi máy được gắn đồng hồ điện để theo dõi lượng điện năng tiêu thụ của mỗi máy.
Công ty đã đầu tư 135.363 USD để thực hiện dự án. Sau khi hệ thống thiết bị mới đi vào hoạt động ổn định, Trung tâm SXSVN đã tiến hành đánh giá và xác nhận hệ thống thiết bị mới đã giảm tiêu thụ điện năng so với hệ thống thiết bị cũ là 575.271 kWh/năm, cũng đồng nghĩa với giảm phát thải khí nhà kính tương đương 343.437 kg CO2/năm (85% mức dự tính trong dự án). Như vậy dự án đã đạt được mức trả thưởng 25% vốn vay ngân hàng để thực hiện dự án. Đây là mức thưởng cao nhất của Quỹ GCTF cho việc cải thiện môi trường.

Theo Chuyên đề Môi trường công nghiệp – Số 28/2011.

Đổi mới công nghệ: Hỗ trợ không đủ, DN thờ ơ

Nhiều địa phương đều có nguồn vốn hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư máy móc, đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, nguồn vốn vay từ các quỹ này không đủ đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
Năm 2007, TP.HCM giao Sở KH-CN TP.HCM 50 tỷ đồng để thành lập Quỹ Phát triển KH-CN TP.HCM. Sau bốn năm đi vào hoạt động, mới chỉ có bảy doanh nghiệp nhận được vốn vay từ Quỹ nói trên với tổng số tiền 30 tỷ đồng. So với hơn 140 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động ở TP.HCM thì đây quả là con số vô cùng ít ỏi!

Vốn ưu đãi không dễ vay

Giữa năm 2008, Công ty cổ phần Cơ khí và đúc kim loại Sài Gòn đã được Quỹ Phát triển KH-CN TP.HCM rót vốn vay bốn tỷ đồng cho dự án đầu tư dây chuyền công nghệ đúc mẫu chảy. Đây là công nghệ dùng để đúc các chi tiết cơ khí phức tạp với độ chính xác cao, công suất 600 tấn/năm. Là đơn vị đầu tiên được vay nguồn quỹ này, ông Lê Việt, Giám đốc công ty cho biết: thủ tục vay không quá khó, không cần thế chấp, chỉ cần chứng minh tính khả thi của dự án cho hội đồng xét duyệt.

Nhưng không phải đơn vị nào cũng được may mắn như thế… Ông Lê Quang Hiệp, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Kỹ nghệ Đô Thành, đơn vị đăng ký vay đầu tư vào dây chuyền sản xuất nắp nhựa chịu gas và không gas theo công nghệ dập nén, cho biết khi thẩm định dự án, thành viên thẩm định về khoa học – công nghệ ủng hộ, nhưng thành viên thẩm định về tài chính lại ít quan tâm đến hiệu quả của công nghệ, mà chỉ quan tâm đến việc thu hồi vốn.

Hiệu quả của Quỹ phát triển KH-CN đã được các doanh nghiệp chứng minh qua thực tiễn. Ông Kỳ Thiết Bảo, Giám đốc Công ty Thiết Bảo chia sẻ: đầu năm 2011, tiếp cận được nguồn vốn vay từ quỹ, công ty đã đầu tư máy móc để nâng cao chất lượng cho sản phẩm do mình nghiên cứu. Sau hơn một năm mở rộng sản xuất, Thiết Bảo đã có hơn 30 dòng sản phẩm máy quấn dây với doanh thu đạt từ 5 – 6 tỷ đồng.

Theo bà Huỳnh Lưu Thanh Giang, chuyên viên Phòng Quản lý công nghệ TP.HCM: Quỹ Phát triển KH-CN TP.HCM cho vay ưu đãi nhằm kích thích doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm. Số tiền Quỹ cho vay bằng 70% tổng vốn đầu tư cho dự án, nhưng không quá 10 tỷ đồng. Lãi suất vay chỉ bằng 50% so với lãi suất ngân hàng. Thời hạn vay bốn năm và được gia hạn thêm hai năm. Vì cho vay không thế chấp nên Quỹ đưa ra nhiều điều kiện buộc doanh nghiệp phải đáp ứng, chứng minh được hiệu quả đầu tư, khả năng thu hồi vốn, chứng minh tài chính ba năm liền tăng trưởng tốt, chứng minh năng lực sản phẩm bằng hợp đồng… Một dự án vay thường phải mất sáu tháng trở lên để chỉnh sửa thủ tục, thẩm định, xét duyệt.

Hỗ trợ không đủ, doanh nghiệp thờ ơ

Tháng 8.2011, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ban hành Quyết định số 35/2011/QĐ-UBND về triển khai Chương trình KH-CN hỗ trợ doanh nghiệp giai đoạn 2011 – 2015.

Theo đó, doanh nghiệp đăng ký vay vốn dùng vào việc đổi mới công nghệ, thiết bị và sản phẩm, tiết kiệm năng lượng sẽ nhận mức hỗ trợ từ 100 – 300 triệu đồng; áp dụng sản xuất sạch, xử lý giảm thiểu ô nhiễm môi trường nhận mức hỗ trợ từ 100 – 300 triệu đồng; áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến theo các tiêu chuẩn quốc tế, 30 – 100 triệu đồng; ứng dụng công nghệ thông tin với mức hỗ trợ từ 20 – 100 triệu đồng; phát triển tài sản trí tuệ với mức hỗ trợ từ 8 – 30 triệu đồng… Tuy nhiên, đến hết tháng 3.2012, vẫn chưa có doanh nghiệp nào gửi hồ sơ đăng ký xin hỗ trợ.

Trước đó, từ năm 2001, Sở KH-CN tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, đã có chương trình KH-CN hỗ trợ cho doanh nghiệp. Tổng kết chương trình này, số doanh nghiệp tham gia để nhận sự hỗ trợ còn khá khiêm tốn. Một trong những nguyên nhân là sự hỗ trợ chưa hấp dẫn doanh nghiệp khi vốn vay chỉ dừng lại ở mức 30% kinh phí của dự án đăng ký vay và không quá 100 triệu đồng.

Sở KH-CN tỉnh Đồng Nai cũng có chương trình tương tự, với tổng kinh phí hơn 11 tỷ đồng, thực hiện trong thời gian 2011 – 2015. Doanh nghiệp có thể tham gia nhiều đề án khác nhau từ áp dụng công cụ quản lý tiên tiến, xác lập quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng website, đến nghiên cứu sản phẩm mới, chuyển giao công nghệ, tiết kiệm năng lượng… với số tiền dao động từ 1,5 – 350 triệu đồng. Tuy nhiên, ông Lê Xuân Trường, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý tiêu chuẩn-đo lường-chất lượng thuộc Sở KH-CN tỉnh Đồng Nai chia sẻ, nguồn vốn trên không thấm tháp gì so với các doanh nghiệp lớn, nhưng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự hỗ trợ nói trên là rất cần thiết. Dù vậy, nó mới chỉ mang tính chất nguồn vốn “mồi” ban đầu nhằm mục đích kích thích cho doanh nghiệp đổi mới.

 

Thái Ngọc

Theo khoahoc.baodatviet.vn