Ngành xi măng: Đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất

Tập trung đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh là một trong những định hướng đầu tư của ngành xi măng theo Quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt giai đoạn 2020-2030.

263201511

 Nghiên cứu chuyển đổi công nghệ nâng cao chất lượng xi măng

Cụ thể, ngành xi măng sẽ phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với công nghệ tiên tiến, sản phẩm đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị trường, tiết kiệm nhiên liệu và tiêu hao năng lượng thấp, bảo vệ môi trường.

Ông Lê Văn Tới, Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) khẳng định, trong quy hoạch đã có lộ trình từng bước xóa bỏ công nghệ lạc hậu, đầu tư mở rộng các dự án có điều kiện về công nghệ, tài chính với công suất lớn, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng xi măng.

Để từng bước đổi mới công nghệ, khẳng định vị trí top đầu thị trường xi măng phía Nam, Tổng công ty Xi măng FiCO đã tập trung xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008, xây dựng phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn (TCVN 17025:2005) Vilas 270 và sản phẩm xi măng FiCO PCB 40 đạt tiêu chuẩn TCVN 6260:2009, đảm bảo chất lượng ổn định, giá thành cạnh tranh. Ông Nguyễn Quang Trung – Tổng giám đốc Tổng công ty FiCO cho biết: “Trong thời gian tới (2016-2020), bên cạnh công tác sản xuất và tiêu thụ, FICO sẽ triển khai dự án đầu tư dây chuyền 2 có công suất thiết kế 1,24 triệu tấn clinker, dây chuyền nghiền xi măng công suất 1,6 triệu tấn xi măng, tổng vốn đầu tư khoảng 3.200 tỷ đồng. Dự kiến dự án sẽ hoàn thành vào giữa năm 2018”.

Bên cạnh đó, Công ty Xi măng Vicem Hoàng Thạch (Vicem Hoàng Thạch) cũng là một điển hình trong việc tập trung đổi mới công nghệ khi nghiên cứu, áp dụng thành công kỹ thuật giảm tiêu hao năng lượng nghiền liệu, nhờ đó lò 3 của nhà máy chạy ổn định và vượt công suất thiết kế với 336 ngày, đạt kỷ lục thế giới (thông thường theo tiêu chuẩn thiết kế mỗi lò chạy hết công suất khoảng từ 250-325 ngày); chi phí cho tiêu thụ sản phẩm chỉ có 70.000 đồng/tấn xi măng, trong khi đơn vị khác là 150.000-200.000 đồng/tấn.

Chỉ số sản xuất 2 tháng đầu năm 2015 của ngành xi măng tăng 19,8% so với cùng kỳ năm 2014. Tiêu thụ sản phẩm xi măng trong hai tháng đầu năm đạt 9,01 triệu tấn, bằng 103,9% so cùng kỳ năm 2014 và đạt 12,5% kế hoạch năm 2015. Trong đó, tiêu thụ trong nước vẫn đạt con số 6,76 triệu tấn, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2014.

Ông Đào Ngọc Bình –  Tổng giám đốc Vicem Hoàng Thạch cho biết, để phát triển mạnh theo chiều sâu, Vicem Hoàng Thạch đang chú trọng đào tạo nguồn nhân lực đạt chuẩn quốc tế, đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến hợp lý hóa trong sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí.

Theo yêu cầu của Chính phủ, năm 2015, đối với những dự án xi măng đầu tư mới phải có công suất tối thiểu 2.500 tấn clinker/ngày trở lên; các dự án ở vùng sâu, dự án chuyển đổi công nghệ có thể áp dụng quy mô, công suất phù hợp. Với sự quan tâm đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật trọng điểm của Chính phủ cùng với đà phục hồi của thị trường bất động sản, các chuyên gia dự đoán rằng mức tiêu thụ sản phẩm xi măng, nhất là tại thị trường nội địa sẽ vẫn giữ được nhịp tăng trưởng như những tháng cuối năm 2014./.

Theo ven.vn

Xử lý cao su phế thải thành nhiên liệu cấp nhiệt

Công ty TNHH TM DV công nghệ mới (Newtech) đã nghiên cứu và ứng dụng công nghệ nhiệt phân liên tục NP-LT tái chế rác cao su thành dầu FO-R và than CBM-R.
6c7d187798-1-05
Từ những phế liệu cao su, thông qua hệ thống tái chế Newtech đã biến chúng thành những nhiên liệu có ích. Nguồn nguyên liệu sau khi phân loại được đưa vào hệ thống tái chế qua quy trình nhiệt phân khép kín tạo thành sản phẩm dầu FO-R, than CBM-R.
Công nghệ xử lý này được thiết kế theo dạng khép kín, kết nối thành một quy trình tuần hoàn sử dụng máy móc chủ yếu tự động hóa. Thành phần chủ yếu của dầu FO-R là mạch hydrocarbon, chúng được sử dụng làm nhiên liệu đốt cho lò hơi, lò sấy và lò tải nhiệt của các hệ thống nhiệt.
Tương tự, than CBM-R cũng có cấu tạo chủ yếu là carbon dạng rắn thay thế cho than cám (than đá) và được sử dụng chủ yếu để làm phụ gia cho quá trình sản xuất gạch block không nung (gạch nhẹ) hoặc thay than cám trộn vào đất sét trong quá trình sản xuất gạch tuynel.
Theo MONRE

Xu hướng mới: Điện mặt trời nổi trên nước

Ứng dụng năng lượng mặt trời ở quy mô lớn nhất bây giờ và có thể cả trong tương lai vẫn là sản xuất điện năng.

Về mặt công nghệ, hiện nay chỉ phát triển rộng rãi hai loại: Công nghệ quang điện SPV (Solar Photovoltaic) và Công nghệ hội tụ năng lượng mặt trời CSP (concentrated solar power).

Riêng trong công nghệ SPV, năng lượng ánh sáng mặt trời được chuyển thành điện năng bởi các tế bào quang điện (hay các pin mặt trời nhỏ bé). Các pin nhỏ này ghép lại thành tấm pin mặt trời lớn và các tấm pin này lại ghép với nhau thành mô-đun hay dãy trước khi đưa lên lưới điện và chuyển đến người sử dụng.

Ánh sáng mặt trời là nguồn năng lượng vô tận và “không mất tiền mua”, vậy mà từ bao nhiêu năm nay ngành công nghiệp điện mặt trời chỉ được phát triển một cách chậm chạp và dè dặt, đặc biệt trong lĩnh vực sử dụng công nghệ quang điện SPV.

Chỉ trong những năm gần đây nền điện năng mặt trời loại này như được khởi sắc bởi sự chắp cánh của xu hướng sản xuất ngay trên mặt nước của sông hồ và cả trên mặt biển.

Sáng kiến mở đầu từ Israel

điện mặt trời, nổi trên nước, xu hướng, nhà máy, năng lượng

Sự hạn chế lớn của việc khai thác năng lượng ánh sáng mặt trời để biến thành điện năng dùng công nghệ SPV gây ra bởi hai khó khăn chính. Trước hết, chất bán dẫn Silicon là vật liệu tốt nhất nhưng cũng khá đắt đỏ trong công nghệ CSP. Thứ hai là yêu cầu lớn về diện tích đất để đặt các tấm thu ánh sáng mặt trời trong lúc việc mua hay thuê đất bằng phẳng cũng là khó khăn lớn khiến giá thành của điện mặt trời bị đẩy lên khá cao.

Trong những nước đi tiên phong trong việc xây dựng và thí điểm công nghệ nhằm khắc phục các khó khăn trên phải kể đến Israel, cụ thể là hãng Solaris Synergy. Chính hãng Solaris Synergy đã giải quyết cả 2 vấn đề khó khăn nói trên, đạt được những hiệu quả đáng ngạc nhiên và, nhờ vậy, đã đạt được vị trí thứ nhất trong cuộc thi ý tưởng tại Đại học Tel Aviv vào tháng 11 năm 2011.

Cụ thể, các kết quả nghiên cứu đạt được của Solaris Synergy như sau. Để giảm chi phí sử dụng các tấm silicon lớn, cần chia nhỏ chúng rồi cho “nổi trên mặt nước như đồ chơi Lego” và “được bao phủ bởi một tấm phim tráng gương có hình cong, có thể thu ánh sáng thành một đường mỏng… “ và, như vậy, “bề mặt của thiết bị giảm chỉ cần 5% lượng silicon, do đó giảm được chi phí đắt đỏ của loại vật liệu này”.

Để giảm tốn kém diện tích đất, hãng Solaris Synergy đã đưa thiết bị thu và biến đổi ánh sáng mặt trời thành dòng điện cho nổi trên mặt nước sạch, nước mặn hoặc nước thải. Và hệ thiết bị này được nâng bởi một mạng lưới được kết nối từ các phần nhỏ chế biến từ sợi thủy tinh và chất dẻo siêu nhẹ có thể nổi được trên mặt nước. Ngoài ra, có thể kể thêm một lợi ích kèm theo: tấm pin mặt trời trên mặt nước này còn đưa lại lợi ích khác vì nó giảm đáng kể sự bay hơi, ngăn chặn sự phát triển của tảo và các sinh vật hữu cơ trong môi trường nước.

Và để cho tia sáng mặt trời luôn hội tụ trong các tấm silicon, tấm lưới nâng được xoay dần dần theo sự di chuyển của mặt trời trong ngày nhờ một động cơ nhỏ điều khiển từ xa qua ăng-ten…

Phát minh trên của hãng Solaris Synergy có ý nghĩa lớn và được ứng dụng ngày càng rộng rãi trên thế giới, trước hết phải kể đến các quốc gia Anh, Úc, Ấn Độ và Ý. Và tiêu biểu là hai nhà máy điện mặt trời ở hai nước Australia và Nhật Bản.

Australia: Nhà máy điện SPV nổi đầu tiên

Nhà máy điện mặt trời sử dụng công nghệ quang điện SPV nổi trên nước đầu tiên với những tính năng ưu việt của nó đã được xây dựng và sắp hoàn thành, dự kiến sẽ bắt đầu hoạt động ngay đầu tháng 4/2015 sắp tới.

Nhà máy này nổi trên một mặt hồ của cơ sở xử lý nước thải ở thị trấn Jamestown thuộc bang Nam Australia. Nhà máy được thiết kế để phần lớn công trình được thực hiện ở bên ngoài, rồi lắp ráp lại với nhau bên trên cơ sở xử lý nước thải.

Các tấm thu năng lượng mặt trời nổi sẽ được làm mát bởi phần nước phía dưới, do đó làm tăng hiệu quả hoạt động lên 57% so với các tấm thu năng lượng mặt trời trên cạn. Đồng thời các tấm này “cũng giúp ngăn chặn 90% nước bốc hơi từ bề mặt được che phủ phía dưới. Đối với những tiểu bang khô hạn hay những vùng có khí hậu khô, đây là một giải pháp tiết kiệm nước tuyệt vời…Nó cũng ngăn chặn tảo xanh phát triển bằng cách giữ mát cho bề mặt nước, cải thiện chất lượng nước qua xử lý” (theo lời bà Felicia Whiting thuộc Công ty Infratech Industries).

điện mặt trời, nổi trên nước, xu hướng, nhà máy, năng lượng

Nhà máy điện mặt trời nổi đầu tiên của Australia được xây dựng bên trên một hồ nước của cơ sở xử lý nước thải. Ảnh: ABC.

Có thể xem nhà máy ở Nam Australia này thực sự là nhà máy điện mặt trời nổi đầu tiên trên thế giới. Với nhà máy này, các nhà chuyên môn khẳng định đây là mô hình nhà máy điện mặt trời bền vững, không tốn diện tích đất và là hình mẫu cho nhiều nước trên thế giới.Công ty Infratech Infratech đã phát triển các nhà máy điện mặt trời nổi ở nhiều quốc gia như Pháp và Hàn Quốc, nhưng đó cũng chỉ là những điểm thử nghiệm. Chính nhà máy sắp đưa vào hoạt động ở Nam Australia mới là nhà máy được áp dụng mô hình mới được cải tiến, dự kiến sẽ sản xuất năng lượng không chỉ đủ cho cơ sở xử lý nước thải hoạt động, mà còn cung cấp điện cho thị trấn Jamestown.

Nhật: Dự án điện mặt trời nổi lớn nhất

Ngoài Australia, gần đây, công nghệ pin năng lượng mặt trời lắp đặt trên mặt nước đã được quan tâm phát triển tại Anh, Úc, Ấn Độ và Ý.

Và đặc biệt ở Nhật Bản, một đất nước khá hẹp về diện tích đất đai bằng phẳng và không đủ diện tích để xây dựng các nhà máy điện mặt trời cỡ lớn. Nhưng bù lại, nước Nhật có tiềm năng về các hồ tích nước trong nông nghiệp, hồ kiểm soát lũ và, ngoài ra, toàn bộ đất nước Phù Tang bao quanh bởi đại dương bao la. Đó là tài sản quý giá để đặt các tấm panô pin cho các nhà máy điện mặt trời kích cỡ khác nhau.

Nhìn lại quá trình phát triển ở Nhật Bản, ông Nobuo Kitamura, giám đốc điều hành cấp cao của Kyocera, cho biết: từ năm 1970 nước này đã bắt đầu nghiên cứu và phát triển năng lượng Mặt Trời, nhưng chủ yếu là ứng dụng với phạm vi nhỏ hẹp như trong sản xuất điện cho đèn đường, biển báo giao thông và trạm viễn thông ở khu vực miền núi. Bước tiếp theo là xây dựng một số nhà máy lớn hơn trên các dải đất ven biển như Kagoshima Nanatsujima.

điện mặt trời, nổi trên nước, xu hướng, nhà máy, năng lượng

Ảnh nhà máy điện mặt trời Kagoshima Nanatsujima hiện có của Nhật. Ảnh: Kyocera.

Và vào tháng 9 năm qua, tập đoàn Kyocera đưa ra kế hoạch khởi công xây dựng nhà máy điện mặt trời nổi trên nước lớn nhất thế giới: phủ 11.000 tấm panô pin mặt trời lên hai khu vực mặt nước rộng ở tỉnh Hyogo. Hai trạm quang điện nổi này có công suất 2,9 MW, đủ để cung cấp điện sinh hoạt cho 920 hộ dân.Đặc biệt, kể từ năm 2011 khi xảy ra thảm họa động đất sóng thần với nhà máy điện hạt nhân ở Fukushima, Nhật Bản chú trọng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, trong đó có điện mặt trời với xu hướng thiên về các nhà máy sử dụng công nghệ quang điện SPV và lắp đặt trên mặt nước.

Đồng thời Kyocera cho xây dựng 30 nhà máy quang điện nổi trên biển vào năm 2015 để sản xuất ra 60 MW điện. Theo Kyocera, các panô nổi trên biển hoạt động tốt hơn trên đất liền vì nước biển làm mát các tấm pin mặt trời khiến tế bào quang điện hoạt động hiệu quả hơn.

Hệ thống năng lượng mặt trời trên mặt nước lớn nhất sẽ được xây dựng trên đập Yamakura. Dự kiến dự án sẽ hoàn thành vào tháng 3 năm 2016, khi đó hệ thống sẽ bao phủ 180.000 m2 nước, với 50.000 tấm pin năng lượng mặt trời và cung cấp điện cho khoảng 5.000 hộ tiêu thụ.

Với nhà máy điện mặt trời nổi đầu tiên sắp khánh thành trong tháng sau của Australia và hệ thống nhà máy quy mô hàng đầu thế giới của Nhật bản dự kiến khai trương vào đầu năm tới, ngành điện mặt trời theo công nghệ SPV trên thế giới sẽ vươn lên một vị thế mới sánh vai với ngành này theo công nghệ hội tụ năng lượng mặt trời CSP sẽ trình bày trong phần giới thiệu kế tiếp Công nghệ hội tụ năng lượng mặt trời CSP (concentrated solar power).

Theo Vietnamnet.vn

Cần nhân rộng việc phát triển đô thị sinh thái, giảm thải carbon

Việt Nam hiện có tổng số 774 đô thị. Tại các đô thị lớn, đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đều phải đối diện với các vấn đề như: gia tăng dân số (khu trung tâm thành phố), ngập úng, ùn tắc giao thông, thiếu năng lượng, ô nhiễm/nguồn nước có nguy cơ nhiễm mặn.

Dự kiến, đến hết năm 2015, Việt Nam sẽ có khoảng 850 đô thị, đến năm 2025 là 1.000 đô thị và các thách thức liên quan đến môi trường, biến đổi khí hậu ngày càng lớn.

Những thông tin trên được nêu lên tại hội thảo “Phát triển đô thị sinh thái và ứng dụng công nghệ giảm thải Carbon”, diễn ra sáng 11/3, tại Khu đô thị Ecopark. Hội thảo do Trung tâm Tiết kiệm Năng lượng TP Hồ Chí Minh (ECC – HCMC) phối hợp với Cục Phát triển Đô thị – Bộ Xây dựng tổ chức.

Tại hội thảo, các chuyên gia cũng đưa ra đánh giá, thế giới đang phải đối mặt với những rủi ro chung mang tính chất toàn cầu như: biến đổi khí hậu, hạn hán, bão lụt, động đất, cháy rừng, hiện tượng băng tan, ô nhiễm môi trường, đặc biệt là việc lượng khí thải carbon toàn cầu liên tục gia tăng và đã đạt tới mức kỷ lục là 36 tỷ tấn từ năm 2013.

Xuất phát từ hiện trạng nêu trên, phát triển carbon thấp đã trở thành một ưu tiên trong các chính sách, chiến lược quan trọng của quốc gia. Chính phủ và nhân dân Việt Nam cùng chung sức với cộng đồng quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu và tiến tới phát triển bền vững.

Trong thời gian qua, hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu đã được mở rộng và phát triển mạnh. Nhật Bản là một trong những nhà tài trợ hàng đầu cho Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu. Hai quốc gia đã ký kết “Thỏa thuận hợp tác về cơ chế tín chỉ chung JCM”. Đây là cơ hội để các thành phố, khu đô thị tại Việt Nam tiếp cận và sử dụng nguồn hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản để áp dụng những công nghệ tiên tiến, ít phát thải carbon, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Tại hội thảo lần này, các chuyên gia tập trung giới thiệu tổng quan về chính sách, thực tiễn phát triển đô thị sinh thái tại Việt Nam đồng thời giới thiệu các tiêu chuẩn đô thị sinh thái của Nhật Bản; các chương trình hỗ trợ cho phát triển thành phố sinh thái thông qua nghiên cứu khả thi theo “cơ chế tín chỉ chung”.

Ecopark là một mô hình kiểu mẫu của đô thị sinh thái.

Ecopark là một mô hình kiểu mẫu của đô thị sinh thái

Những chuyên gia đến từ các tổ chức và doanh nghiệp Nhật Bản đã giới thiệu những giải pháp công nghệ ứng dụng, khả năng chuyển giao công nghệ cho các khu đô thị tại Việt Nam như: công nghệ năng lượng mặt trời, công nghệ chiếu sáng đèn LED, công nghệ xử lý nước thải, hệ thống chia sẻ xe đạp thông minh đã áp dụng thành công tại Nhật Bản.

Hội thảo là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp bất động sản tại Việt Nam tiếp cận các sáng kiến khoa học kỹ thuật và ứng dụng trong việc phát triển đô thị sinh thái. Ngoài việc thảo luận và chia sẻ kinh nghiệm, các học giả và nhà khoa học trong và ngoài nước, các doanh nghiệp đã đi thăm quan thực tiễn khu đô thị Ecopark và đánh giá đây là một mô hình kiểu mẫu của đô thị sinh thái.

Theo Lan Hương/Hà Nội mới

Video clip cảm động đạt 200 triệu lượt xem chỉ sau 2 ngày!

Ô nhiễm kinh khủng ngay giữa thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân

Một video phim tài liệu về vấn đề ô nhiễm môi trường của Trung Quốc đã đạt 200 triệu lượt truy cập chỉ sau 2 ngày cuối tuần và số người truy cập vẫn tiếp tục tăng. Các nhà môi trường đánh giá rằng bộ phim giúp người dân Trung Quốc mở rộng tầm mắt.

Khách du lịch phải bịt kín khẩu trang và đeo kính khi đến Công viên Thiên Đàn ở Bắc Kinh vào tháng Giêng. (Ảnh: Tân Hoa xã)

Khách du lịch phải bịt kín khẩu trang và đeo kính khi đến Công viên Thiên Đàn ở Bắc Kinh vào tháng Giêng. (Ảnh: Tân Hoa xã)

Chai Jing là một phóng viên điều tra đang làm việc tại đài truyền hình quốc gia Trung Quốc. Cô đã phải bỏ công việc của mình vào năm ngoái để chăm sóc con gái điều trị khối u lành tính.Trong bộ phim tài liệu này, Chai Jing đã diễn tả cô phải rất khó khăn khi giải thích cho cô con gái của mình rằng tại sao không nên ra ngoài đường.

“Tại Bắc Kinh vào năm 2014, tôi chỉ dám đưa con gái ra ngoài khi không khí trong lành hơn,” cô nói trong bộ phim. “Có 175 ngày ô nhiễm trong năm ngoái. Điều đó có nghĩa rằng trong nửa năm, tôi không có sự lựa chọn nào khác mà phải giữ con gái ở nhà, đóng cửa tại như một tù nhân.”

Chai Jing đã đầu tư 160.000 USD và mất một năm để làm bộ phim Under The Dome, tiêu đề giống như một cuốn tiểu thuyết của Stephen King. Một số cảnh trong phim đang gây sốc, trong đó có một chuyến thăm tới một phòng điều hành của bệnh viện, nơi mà các khán giả nhìn thấy những bệnh nhân bị bênh phổi do ô nhiễm không khí tại Trung Quốc gây ra.

Chai Jing hỏi một số câu hỏi khó về chính trị và kinh tế, về nguyên nhân gây ra sương khói, nhưng thường với một cách nhẹ nhàng, hài hước.

Cô phỏng vấn một quan chức môi trường, địa phương, người cảm thấy bất lực khi thực thi pháp luật của nhà nước. Ông thừa nhận rằng, “Tôi không muốn mở miệng, bởi vì tôi e sợ bạn sẽ thấy tôi không có răng.”

Cô thú nhận rằng, giống như nhiều công dân Trung Quốc, chỉ mới đây cô mới biết được sự khác biệt giữa sương mù và sương khói.

Cô đã phỏng vấn các quan chức địa phương, người đã bảo vệ cho các ngành công nghiệp gây ô nhiễm vì các ngành công nghiệp đó đã tạo ra công ăn việc làm và nộp thuế.

Chai Jing không chỉ trích một cách rõ ràng mô hình phát triển kinh tế của Trung Quốc. Cô cũng không gọi tên các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải chịu trách nhiệm đối với các chính sách này. Cô muốn nói lên rằng, ô nhiễm là cái giá phải trả cho việc công nghiệp hóa nhanh chóng và Trung Quốc đã đến lúc bị trả giá.

Trong bộ phim, Chai đã đi đến Los Angeles và London để tìm hiểu cách để những thành phố đó có không khí sạch. Cô kết luận rằng Trung Quốc có thể làm theo những tấm gương đó, và các công dân nên cùng chung tay giải quyết.

“Các chính phủ lớn mạnh trên thế giới không thể tự giải quyết các ô nhiễm… Họ phải dựa vào mỗi người dân bình thường như bạn và tôi, dựa trên sự lựa chọn của chúng tôi, và theo ý của chúng tôi.”

Ma Jun, giám đốc của Viện công cộng và các vấn đề môi trường Bắc Kinh, đồng ý với quan điểm này/ Ông coi bộ phim tài liệu Chai như một lời cảnh tỉnh đối với Trung Quốc, sánh với An Inconvenient Truth, các phim tài liệu về biến đổi khí hậu năm 2006, và Silent Spring, cuốn sách năm 1962 của Rachel Carson về thuốc trừ sâu độc hại.

Ông Ma Jun đã đưa ra lời giải thích vì sao chính phủ Trung Quốc không im lặng trước Chai Jing, và Bộ trưởng môi trường mới của Trung Quốc thậm chí còn cảm ơn cô.

“Bộ phim được chú ý mạnh mẽ vì đề cập đến vấn đề gốc rễ sâu xa, đã được phép phổ biến rộng rãi,” ông nói, ” đó là mặt tích cực của bộ phum, mang đến cho mọi người hy vọng và niềm tin.”

Chai đã từ chối yêu cầu phỏng vấn, ngoại trừ cuộc phỏng vấn với phiên bản web của tờ Nhân dân Nhật báo.

“Mười năm trước, tôi từng tự hỏi, có mùi gì (khó chịu) trong không khí vậy. Giờ đây, tôi đã biết, đó chính là “mùi tiền” – Chai Jing, phóng viên, nhà làm phim tài liệu.

Website đó cho phát trực tuyến bộ phim tài liệu cho đến tận ngày 4/3. Sau đó, nó biến mất mà không có lời giải thích. Tuy nhiên bộ phim vẫn có thể xem được ở những trang web khác ở chính Trung Quốc.

Trong hơn một thập niên qua, Trung Quốc tuyên bố đã đến lúc xử lý ô nhiễm môi trường và họ sẵn sàng giảm tăng trưởng kinh tế để thực hiện được điều đó. Nhưng năm ngoái chỉ có 8 trên 74 thành phố Trung Quốc đáp ứng các chỉ tiêu chất lượng không khí – nhiều hơn 5 thành phố so với năm 2013.

Các nhà môi trường đã hoan nghênh dấu hiệu đáng khích lệ khác trong những tháng gần đây. Cuối tháng 11/2014, lần đầu tiên, Trung Quốc đặt mục tiêu cho năm 2030 lượng khí thải carbon đath mức tối đa, sau đó sẽ giảm dần.

Và đã hứa sẽ cho phép các nhóm nghiên cứu môi trường nộp đơn kiện tập thể chống lại những tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường.

Theo CTV Nguyễn Xuân Hưng/ vov.vn

Khởi động dự án điện gió đầu tiên ở Tây Nguyên

Dự án “Phong điện Tây Nguyên” được xây dựng tại huyện Ea H’leo (Đắk Lắk) sẽ cung cấp 450 triệu/Kwh/năm, đủ khả năng cung cấp điện cho 200 nghìn hộ gia đình ở Tây Nguyên.

Dự án được khởi công sáng nay (6/3), tại xã Đliê-Yang, huyện Ea H’leo (Đắk Lắk) do Công ty Giải pháp năng lượng gió HBRE (HBRE Wind Power Solution) làm chủ đầu tư với tổng công suất thiết kế là 120 MW, tổng mức đầu tư khoảng 6.000 tỷ  đồng.

20150306221828-a1

 Lễ khởi công dự án “Phong điện Tây Nguyên”

Sản lượng điện cung cấp hàng năm lên đến 450 triệu Kwh/năm, đủ khả năng cung cấp cho 200 ngàn hộ gia đình. Dự án này chia làm 3 giai đoạn và dự kiến đến năm 2020 sẽ hoàn thành toàn bộ. Riêng giai đoạn 1 sẽ hoàn thành và hòa vào điện lưới Quốc gia trong quý 2 năm 2016, với công suất là 28 MW.

Dự án triển khai và đi vào vận hành ngoài việc tạo được nguồn năng lượng xanh còn góp phần phát triển môi trường đầu tư của địa phương; tạo công ăn việc làm, nâng cấp, mở rộng hệ thống giao thông; tạo cảnh quan môi trường, phát triển du lịch và kinh tế- xã hội.

Ông Y Dhăm Enuôl, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Đắk Lắk cho biết, đây là dự án điện gió đầu tiên ở Tây Nguyên, tỉnh Đắk Lắk sẽ tạo mọi điều kiện về cơ chế chính sách để dự án hoàn thành đúng thời gian. Đồng thời mong muốn, chủ đầu tư và đơn vị thi công sẽ tập trung mọi nguồn lực để sớm hoàn thành theo tiến độ dự án đề ra; bảo đảm nhà máy hoạt động ổn định, hiệu quả, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội của tỉnh phát triển.

Kết quả nghiên cứu của Bộ Công thương, Tây Nguyên là một trong những vùng có nguồn năng lượng gió dồi dào và ổn định nhất Việt Nam. Năm 2012, tổng công suất lắp đặt điện gió của Tây Nguyên chiếm khoảng 25% trên tổng sản lượng điện gió tiềm năng của Quốc gia, tập trung chủ yếu ở Đắk Lắk và Gia Lai.

 Theo Vietnamnet.vn

 

Anh hỗ trợ thương mại hóa sáng kiến khoa học Việt Nam

Một số nhà khoa học Việt Nam sẽ tìm hiểu những kinh nghiệm của các đối tác Anh để thương mại hóa các sản phẩm khoa học trong thời gian tới.

kh-7081-1425298111

Ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KHCN (giữa) trong buổi họp báo chiều nay. Ảnh: Việt Anh

14 nhà khoa học là các giảng viên các trường đại học, nhà nghiên cứu và doanh nhân liên quan đến lĩnh vực khoa học công nghệ sẽ đến Anh tham gia chương trình “Hỗ trợ thương mại hóa kết quả nghiên cứu của nhà khoa học”, ông Nguyễn Văn Trúc, Giám đốc Trung tâm Đào tạo và hỗ trợ phát triển thị trường công nghệ, Bộ Khoa học Công nghệ, cho biết chiều nay.

Đây là dự án nằm trong khuôn khổ Chương trình Hợp tác nghiên cứu và đổi mới sáng tạo giữa Việt Nam và Anh, do Cục Phát triển Thị trường và doanh nghiệp khoa học công nghệ (PTTT), Bộ Khoa học Công nghệ, phối hợp với Viện Hàn lâm kỹ thuật Hoàng gia Anh tổ chức. Mục tiêu là đào tạo nâng cao năng lực cho các nhà khoa học, các nhà sáng chế Việt Nam trong việc thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu và tăng cường hợp tác quốc tế với các tổ chức khoa học của Anh. Trong đó Quỹ Newton của Anh hỗ trợ khoản chi phí 75.000 bảng Anh, theo ông Trúc.

Từ ngày 7 đến ngày 19/3, các nhà khoa học Việt Nam sẽ tìm hiểu các mô hình kinh doanh khoa học công nghệ, phát triển và thuyết phục khách hàng, dựa trên các kinh nghiệm thành công của các doanh nghiệp Anh. Các học viên cũng sẽ thảo luận hình thức kinh doanh công nghệ mới và các yếu tố thành công trong tiếp cận thị trường, thực hành phương án kinh doanh của mình dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia cố vấn, kết nối với các chuyên gia và mạng lưới doanh nghiệp khoa học công nghệ của Viện Hàn lâm. Sau đó, từ tháng 4 đến tháng 12 năm nay, các học viên sẽ được Cục PTTT hỗ trợ tập huấn và hoàn thiện kế hoạch kinh doanh phù hợp với chính sách và điều kiện Việt Nam.

Ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục PTTT cho biết ông kỳ vọng các nhà khoa học sẽ tìm hiểu kỹ các câu chuyện thành công và thất bại ở Anh để có thể áp dụng khi về Việt Nam. “Các nhà khoa học phải làm giàu từ đề tài của mình”, ông Quất nói.

Ông Trần Văn Bình, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Đầu tư và phát triển công nghệ, Đại học Bách khoa, cho hay ông mong muốn tìm hiểu mô hình vườn ươm doanh nghiệp công nghệ, mối quan hệ giữa nhà khoa học với doanh nghiệp, vai trò của nhà nước trong xây dựng vườn ươm. “Hiện trạng vườn ươm ở Việt Nam là hết tài trợ là ngưng hoạt động”, ông Bình cho hay. Sau chuyến đi, ông Bình hy vọng tạo ra “hệ sinh thái” để phát huy tinh thần khởi nghiệp của Việt Nam, sẽ xây dựng vườn ươm trong hệ thống doanh nghiệp của Đại học Bách Khoa.

Theo Vnexpress.net

Đổi mới sáng tạo: Yếu tố sống còn của doanh nghiệp

Các công ty hàng đầu thế giới như Apple, Google, Samsung… đều nằm trong top các công ty “chịu” đổi mới nhất và chi tiêu “mạnh tay” nhất cho R&D và có hiệu quả kinh doanh tốt nhất. Trong môi trường cạnh tranh tự do toàn cầu, các hoạt động này càng trở nên là yếu tố sống còn của các doanh nghiệp (DN). Các DN Việt Nam cũng không ngoại lệ, hoạt động đổi mới sáng tạo (ĐMST) và KH&CN đã đóng góp hiệu quả vào sản xuất kinh doanh và nâng cao năng lực canh tranh của DN. Câu chuyện của hai DN dưới đây là một minh chứng.

Công ty TNHH Cơ khí công nông nghiệp Bùi Văn Ngọ: đổi mới công nghệ để phát triển

Đổi mới sáng tạo

Máy xát gạo, một trong những sản phẩm của Cty Bùi Văn Ngọ. Ảnh: LV

Từ một xưởng cơ khí nhỏ của gia đình, ông Bùi Văn Ngọ và các thành viên đã phát triển thành Công ty TNHH Cơ khí công nông nghiệp Bùi Văn Ngọ (Cty Bùi Văn Ngọ) với những sản phẩm chủ lực phục vụ nông nghiệp. Các sản phẩm của công ty không chỉ phổ biến trong nước mà còn được xuất khẩu. Đặc biệt, những sản phẩm này ra đời đều do sự sáng tạo của người Việt.

Quá trình 60 năm phát triển của Cty Bùi Văn Ngọ là quá trình tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu, sáng tạo và không ngại đổi mới. Ngay từ những năm mới thành lập xưởng cơ khí, ông Bùi Văn Ngọ đã rất chú trọng đến những sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Năm 1963, sáng kiến ra béc phun nhiên liệu dầu cặn sử dụng trong công nghệ nấu gang đã được sử dụng rộng rãi trong các lò nấu kim loại và các lò nung gạch. Sau đó xưởng Bùi Văn Ngọ chuyển sang sản xuất các mặt hàng chế biến nông sản, thiết bị công nghiệp nhẹ, máy nghiền bột giấy,… Từ năm 1986, khi nền kinh tế đổi mới theo cơ chế thị trường, xưởng Bùi Văn Ngọ quyết định hướng trọng tâm sang chuyên sản xuất các thiết bị xay xát gạo. Vừa sản xuất, vừa mở rộng quy mô, các sản phẩm của công ty được biết đến nhiều hơn không chỉ ở thị trường trong nước mà còn ở cả nước ngoài như Thái Lan, Indonesia, Malaysia… Sau những chuyến đi nghiên cứu ở thị trường các nước châu Á, công ty có nhận thức mới về đặc tính kỹ thuật của thiết bị, bố trí hệ thống thiết bị, cơ sở hạ tầng phục vụ xay xát. Đây là động lực thúc đẩy tư duy để thiết kế những thiết bị mới cho phù hợp với mặt bằng công nghệ về xay xát của thế giới.

Năm 1998, Cty Bùi Văn Ngọ cho ra đời loại máy xát trắng gạo mới và được Cục Sở hữu Trí tuệ Việt Nam cấp bằng độc quyền sáng chế về buồng xát dùng cho máy xát trắng gạo. Từ điểm son này, công ty ứng dụng tạo ra các dòng sản phẩm mới được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng, đóng góp lớn vào doanh thu của công ty.

Bên cạnh đó, Cty Bùi Văn Ngọ cũng rất “chịu khó” đầu tư đổi mới công nghệ. Ông Bùi Phong Lưu, Giám đốc Cty Bùi Văn Ngọ cho biết, thời gian qua, những thiết bị gia công kim loại luôn được đầu tư mới, hiện đại hơn như máy đột lỗ CNC, máy cắt kim loại dùng tia plasma, tia laser. Vì thế, tỷ lệ sử dụng nguyên liệu sắt thép tăng từ 80% lên 95 – 97%; tỷ lệ các chi tiết máy không đạt chuẩn từ 5% xuống còn 1%; năng suất lao động tăng nhanh, chất lượng chi tiết máy và thiết bị đạt chuẩn quốc tế. Nghiên cứu sâu về công nghệ xay xát lúa gạo, công ty đã sản xuất ra các dòng sản phẩm máy xay xát thích hợp với vùng lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long. Không chỉ góp phần quan trọng trong việc thay thế thiết bị xay xát ngoại nhập, sản phẩm của công ty còn xuất khẩu đến 26 quốc gia trên thế giới. Hiện nay, công ty đang sản xuất các thiết bị sấy tồn trữ và xay xát lúa gạo đồng bộ theo công nghệ tiên tiến. Các thiết bị này giúp giảm thiệt hại sau thu hoạch. Công ty cũng đã sản xuất được hệ thống thiết bị đồng bộ từ sấy – xay xát – tách màu – đóng gói cho ngành lúa gạo ngang bằng công nghệ xay xát thế giới. Ông Bùi Hữu Nghĩa, Phó Giám đốc phụ trách kỹ thuật cho biết thêm, tất cả các sản phẩm của công ty đều do kỹ sư người Việt của công ty thiết kế, chế tạo. Có được thành công hôm nay là nhờ công ty luôn chú trọng các hoạt động đổi mới sáng tạo và đầu tư cho KH&CN. Phong trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ được công ty phát động rộng rãi từ những người công nhân lao động.

Công ty TNHH Môi trường Nano: thành công từ ĐMST

Máy nano

ThS Nguyễn Văn Diện cùng máy Ozone công nghiệp nano

Xuất phát điểm là một công ty tư nhân có quy mô nhỏ, khó khăn thách thức nhiều hơn thuận lợi, Công ty TNHH Môi trường Nano vẫn mạnh dạn đặt cho mình mục tiêu tạo thương hiệu, mở rộng thị trường, tăng doanh thu, tạo nhiều việc làm, góp phần giải quyết xử lý môi trường tại Việt Nam hiện nay. Để đạt mục tiêu này, quyết tâm thôi chưa đủ, công ty đã chọn con đường ĐMST.

Hơn 5 năm trầy trật nghiên cứu, ThS. Nguyễn Văn Diện (Giám đốc Công ty TNHH Môi trường Nano) và các cộng sự đã thành công trong việc áp dụng công nghệ nano để chế tạo máy ozone công nghiệp phục vụ xử lý môi trường. Trong quá trình tìm kiếm các giải pháp hoàn thiện sản phẩm, công ty đã tiếp cận được với Chương trình đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam – Phần Lan (IPP) và được IPP hỗ trợ “cải tạo và nâng cấp máy ozone công nghiệp”. Kết quả, Công ty Nano cùng với các chuyên gia của Đại học Quốc gia TP.HCM đã hoàn thành nghiên cứu cải tiến và nâng cấp toàn diện máy ozone công nghiệp. Sản phẩm máy ozone công nghiệp được cải tiến “made in Vietnam” có những ưu điểm như: mẫu mã nhỏ gọn, điều khiển tự động, tiết kiệm điện, hoạt động ổn định và quan trọng hơn, máy đã xử lý được mùi, màu và diệt khuẩn trong nước thải, nước sinh hoạt, nước tinh khiết, xử lý mùi nơi công cộng và các nhà máy.

Từ thành công của máy ozone công nghiệp, Công ty Nano tiếp tục ứng dụng thành công công nghệ ozone vào sản xuất modul xử lý nước thải đô thị. Modul xử lý nước thải đô thị có ưu điểm là nhỏ gọn, không chiếm nhiều diện tích, không phải đào bới xây dựng bể chứa, dễ dàng di chuyển khi cần thiết, không gây tiếng ồn và phát mùi khi hoạt động. Sản phẩm này có thể ứng dụng trong xử lý nước thải bệnh viện.

ThS. Diện cho biết, hiện tại, sản phẩm của công ty đã được đưa vào ứng dụng tại hơn 20 công trình xử lý nước thải công nghiệp và hơn 30 phòng khám, bệnh viện ở các tỉnh, thành phía Nam. Các sản phẩm đạt chất lượng tương đương máy nhập ngoại từ châu Âu nhưng giá thành chỉ bằng 1/3. Vì vậy, các sản phẩm của công ty hiện đang được nhiều khách hàng quan tâm và đặt hàng, nhất là modul xử lý nước thải đô thị. Có được thành công này là nhờ Công ty Nano đã chọn đúng hướng đi và mạnh dạn, kiên trì với con đường ĐMST.

ĐMST thực sự đã tạo nên “cú hích” đáng kể đối với kế hoạch phát triển của công ty. Sau khi ĐMST, công ty đã đạt doanh thu tăng gấp đôi, cụ thể từ 2010 – 2012 chỉ đạt bình quân 60 tỷ/năm, nhưng năm 2013 sau khi ĐMST đã đạt khoảng 120 tỷ. Đặc biệt, chất lượng dịch vụ bảo hành, sửa chữa rất chu đáo, kịp thời vì các kỹ sư của công ty đã làm chủ hoàn toàn được công nghệ. Thời gian tới công ty tiếp tục hợp tác với các chuyên gia trong và ngoài nước để nghiên cứu đưa ra sản phẩm mới; tăng cường ứng dụng sản phẩm sẵn có vào thị trường trong nước và hợp tác với các DN nước ngoài để đưa sản phẩm “made in Vietnam” xuất khẩu ra nước ngoài, đặc biệt là các nước trong khu vực châu Á.

Trong bối cảnh hiện nay, ĐMST là việc cần phải làm đối với tất cả các DN, đặc biệt là các DN vừa và nhỏ. DN cần mạnh dạn mở rộng hợp tác với các nhà nghiên cứu của các trường đại học và các tổ chức để phát triển sản phẩm; đẩy mạnh chuyển giao công nghệ; đào tạo đội ngũ nhân viên; hoàn thiện hồ sơ pháp lý (đăng ký nhãn hiệu, kiểu dáng, kiểm định chất lượng…) và quảng bá sản phẩm ra thị trường. Bên cạnh cải tiến hoàn thiện sản phẩm, ĐMST cần toàn diện từ đổi mới tư duy đến đổi mới phương pháp quản lý, sản xuất, kinh doanh, quản lý tài chính, quản lý thị trường, quản lý khách hàng. ĐMST trong DN đòi hỏi nhiều điều kiện, trong đó điều kiện về tài chính và năng lực của đội ngũ chuyên gia tư vấn là cực kỳ quan trọng. Ngoài ra, cần có sự quan tâm và tạo điều kiện đồng bộ từ các cấp, ngành và đặc biệt là sự nỗ lực học hỏi, rút kinh nghiệm của bản thân mỗi DN.

Theo Stinfo số 6/2014

Các động lực để tăng trưởng kinh tế năm 2015

Trong khi kinh tế nhiều nước trên thế giới tăng trưởng còn rất thấp, thậm chí có nước còn tiếp tục suy thoái thì năm 2014, GDP của Việt Nam đạt 5,9%. Tuy nhiên, theo cộng đồng các doanh nghiệp, ý nghĩa không chỉ là từ những gói hỗ trợ, kích cầu mà quan trọng hơn chính là sự điều hành ổn định kinh tế vĩ mô của của Chính phủ – đây chính là khởi nguồn cho các ngành vượt qua khó khăn, phục hồi và phát triển cho năm 2014, đặc biệt là xung lực cho năm 2015.

cac_dong_luc_tang_truong_kinh_te_2015_1

Ổn định kinh tế vĩ mô

Tại Diễn đàn Đối tác phát triển Việt Nam (VDPF) 2014 diễn ra tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, năm 2014 Việt Nam đã đạt được những thành quả khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực cả về phát triển toàn diện kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo đảm ổn định chính trị, quốc phòng an ninh, tăng cường đối ngoại, cải thiện môi trường kinh doanh.

Với sự tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến người dân và doanh nghiệp (DN) như thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, tín dụng, đất đai, xây dựng, thành lập và giải thể DN, thủ tục đầu tư, tiếp cận điện năng…, nhờ đó môi trường kinh doanh từng bước được cải thiện, huy động và sử dụng ngày càng tốt hơn các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.

Nhận định của các tổ chức nước ngoài, các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đều cho rằng: kinh tế vĩ mô của Việt Nam ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức 5%. Chỉ số CPI cả năm chỉ dao động quanh ngưỡng 3%. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, thấp nhất trong 10 năm qua. Đặc biệt, tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế được tích cực triển khai thực hiện tăng cường quản lý, tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách. Bên cạnh việc tăng cường quản lý và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp tái cơ cấu DN nhà nước, tập trung vào cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành, nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh, Chính phủ còn đẩy mạnh tái cơ cấu các tổ chức tín dụng. Đến nay, cơ bản hoàn thành tái cơ cấu các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém, giảm 7 tổ chức tín dụng. Năng lực tài chính của ngân hàng thương mại tăng lên, an toàn hệ thống được bảo đảm. Tăng trưởng tín dụng dự kiến cả năm tăng 12 – 14% theo kế hoạch Ngân hàng Nhà nước đưa ra. Theo ông Phạm Xuân Hòe, Vụ Chính sách Tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước thì tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định. Việc huy động vốn trong năm 2014 tương đối thuận lợi, kim ngạch XK tăng nên nguồn dự trữ ngoại tệ hiện nay khá dồi dào, đạt mức cao nhất từ trước đến nay, niềm tin vào đồng tiền Việt Nam tăng lên… Tất cả các yếu tố này để thấy rằng kinh tế Việt Nam phục hồi và tăng trưởng, GDP đạt 5,9% là hoàn toàn có cơ sở.

Các động lực tăng trưởng kinh tế

Có thể nói, thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) năm nay đạt khoảng 12,5 tỷ USD, tăng 8 – 10% so với 2013. Đáng lưu ý, trong 4 động lực tăng trưởng hiện nay, khối FDI đang giữ vai trò phát triển tốt nhất. Với xu hướng những DN hàng đầu thế giới đang chuyển dịch từ Trung Quốc vào các nước lân cận, trong đó có Việt Nam thì những năm tiếp theo, dự báo động lực tăng trưởng này vẫn duy trì tốt.

Tiếp theo là sản xuất công nghiệp (SXCN), theo Bộ Công Thương, SXCN năm 2014, đặc biệt là những tháng cuối năm có sự bứt phá rất lớn. Với 20.549 tỷ đồng trong năm nay, cho thấy SXCN bớt khó khăn hơn và là tín hiệu khả quan để thúc đẩy công nghiệp có thể tăng trưởng, đóng góp tốt hơn cho toàn bộ nền kinh tế.

Về xuất khẩu (XK), có thể nói đây là năm rất khó dự báo khi những tháng giữa năm chịu sự tác động từ vụ căng thẳng biển Đông, nhiều mặt hàng XK chủ lực của chúng ta sang thị trường Trung Quốc bị chững lại. Tuy nhiên, năm 2014, XK lại đột phá ấn tượng với kim ngạch đạt khoảng 150 tỷ USD, tăng 13%.  Cán cân thương mại, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế tổng thể tiếp tục thặng dư do nhập khẩu khoảng 146,5 tỷ USD. Nhiều mặt hàng XK có tốc độ tăng cao, cụ thể như: hạt tiêu tăng 41,5%, cà phê tăng 31%, giầy dép tăng 24,5%, hạt điều tăng 23,7%, thủy sản tăng 23,7%, máy móc, thiết bị, phụ tùng tăng 22,1%, dệt may tăng 19%… Điều cần khẳng định ở đây là từ con số kim ngạch XK tăng trưởng cho thấy, sự nỗ lực của các Bộ ngành, nhất là các DN Việt Nam đã có sự chủ động tích cực trong việc mở rộng thị trường XK, tránh lệ thuộc vào một số thị trường tập trung.

Thành công tiếp nữa là công tác hội nhập, sau 6 năm trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới – WTO, Việt Nam đã và đang tham gia đàm phán ký kết các Hiệp định thương mại tự do với các đối tác thương mại quan trọng như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Hàn Quốc, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và khối mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Hải quan Nga – Belarut – Cadacxtan… Năm 2014, không chỉ mở ra nhiều hứa hẹn trong đàm phán các Hiệp định thương mại tự do với các đối tác quan trọng mà còn là năm bản lề Việt Nam thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2015 – 2020, đồng thời cũng là năm bản lề của hội nhập khu vực ASEAN nhằm hiện thực hóa Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015.

Cùng với những chỉ tiêu chuyển biến tích cực nêu trên thì thị trường bất động sản trong năm 2014 cũng phục hồi tích cực. Có những địa phương tăng tới 200% các vụ giao dịch so với năm 2013, tính thanh khoản cao. Du lịch cũng đã tăng 10,4%, khách quốc tế đến Việt Nam đạt khoảng 8 triệu lượt… Tất cả những kết quả này chính là bệ phóng để năm 2015, kinh tế Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng.

Theo một số chuyên gia kinh tế, trên thực tế năm 2014, Việt Nam vẫn còn những dư địa tăng trưởng kinh tế nếu tập trung nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xã hội, giải quyết một số động lực tăng trưởng tốt hơn như: tận dụng điều hành chính sách tiền tệ; giải cứu doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa; kích hoạt nhanh hơn thị trường bất động sản; làm cho tác dụng lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với doanh nghiệp trong nước nhanh và có hiệu quả hơn; phát triển công nghiệp hỗ trợ tốt hơn…

 Theo Kinh tế Việt Nam

Việt Nam đã sẵn sàng cho tăng trưởng xanh?

Nói Việt Nam đã sẵn sàng cho tăng trưởng xanh tuy nhiên việc triển khai các chiến lược, kế hoạch trên thực tế vẫn còn chậm.
Story
Việt Nam tuy đã chuyển dịch theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng các ngành tiêu tốn năng lượng và tài nguyên còn nhiều

Theo chuyên gia, để đảm bảo tăng trưởng xanh, Việt Nam cần đẩy nhanh tái cơ cấu kinh tế, chú trọng chuyển đổi cơ cấu nội ngành theo hướng ưu tiên những ngành ít phát thải, và đặc biệt là chú trọng vào các biện pháp tiết kiệm năng lượng.

Thời gian qua, cơ cấu kinh tế Việt Nam đang có xu hướng chuyển dịch sang công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, và thu hẹp ngành nông lâm, thủy sản.Cụ thể, nếu như trong giai đoạn 1990-2000 ngành công nghiệp nước ta đóng góp 29,62% tổng GDP, thì giai đoạn 2001-2010 đã tăng lên 38,42%, và giai đoạn 2011- 2013 giảm xuống một chút còn 38,28%. Trong khi đó, cơ cấu GDP của ngành nông lâm, thủy sản tương ứng các giai đoạn 1990-2000, 2001-2010 và 2011-2013 là 29,72%, 20,58% và 19,38%; cơ cấu của ngành dịch vụ có thay đổi nhưng không nhiều, tương ứng các giai đoạn trên là 40,66%, 41,0% và 42,34%. Mặc dù, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội ngành cũng đã có bước chuyển biến tích cực theo hướng tăng trưởng xanh, tức là giảm những ngành tiêu dùng năng lượng, nhưng chuyển dịch còn rất chậm.Bằng chứng là những ngành như xi măng, dệt sợi, sắt thép, hóa chất là ngành có tỷ trọng tiêu dùng năng lượng lớn nhất trong ngành công nghiệp và xây dựng đều có xu hướng giảm tỷ trọng trong GDP, tuy nhiên tốc độ giảm trung bình của nhóm này chỉ ở mức -2,46%/năm.

Cơ cấu kinh tế tuy đã chuyển dịch theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng các ngành tiêu tốn năng lượng và tài nguyên còn nhiều, nên tăng trưởng xanh sẽ tạo động lực để các ngành tái cơ cấu.

Với lợi thế là nước đi sau, trình độ công nghệ còn thấp cũng đang là cơ hội lớn cho Việt Nam áp dụng các công nghệ tiên tiến, có hiệu quả sử dụng năng lượng cao hơn, cũng như giảm phát thải chất ô nhiễm và khí nhà kính.

Mặt khác, hội nhập kinh tế tiếp tục tạo ra nhiều cơ hội cho Việt Nam tiếp cận với công nghệ tiên tiến, tiếp cận các thị trường lớn đòi hỏi sản phẩm xanh, qua đó tạo động lực để hoàn thiện mình, từ ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật để đáp ứng với các yêu cầu của các đối tác thương mại, đến việc thu hút đầu tư nước ngoài. Việc thu hút đầu tư nước ngoài không chỉ đơn thuần là thu hút vốn, mà cả công nghệ và kỹ năng quản trị của họ cũng sẽ góp phần thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh của nước ta.

Mặc dù nhiều cơ hội, nhưng chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng trưởng xanh cũng phải đối mặt với nhiều thách thức như:

Nhận thức của xã hội về tăng trưởng xanh chưa cao, vẫn còn chú trọng nhiều vào lợi ích trước mắt, thiếu các ưu tiên cho phát triển dài hạn; chưa xác định được những chính sách cân bằng giữa các định hướng và mục tiêu phát triển của 5 nhóm vấn đề nêu trên.

Trình độ công nghệ thấp, lạc hậu vừa là cơ hội, nhưng vừa là thách thức lớn do nguồn lực tài chính có hạn. Trong cấu trúc doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng lực đổi mới công nghệ thấp nên việc thay đổi hoặc đổi mới công nghệ gặp không ít khó khăn. Chi cho đầu tư nâng cấp, cải tiến công nghệ còn hạn chế. Khu vực có vốn nước ngoài tuy đóng góp cao vào tăng trưởng, đầu tư và xuất khẩu, nhưng ít tương tác với khu vực doanh nghiệp trong nước, chuyển giao công nghệ không đáng kể, chưa được thực sự tận dụng cho tăng trưởng xanh ở Việt Nam.

Thị trường năng lượng nước ta vận hành chưa hiệu quả, nên chưa tạo động lực thay đổi công nghệ của một số ngành có tiêu thụ năng lượng lớn.

Cuối cùng, chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn chậm, khả năng phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành chưa hiệu quả; tồn tại các mâu thuẫn giữa mục tiêu tăng trưởng với mục tiêu bảo vệ môi trường,… đang là thách thức lớn cản trở tăng trưởng theo hướng xanh và bền vững.

Theo vietq.vn