Hướng tới một “nền kinh tế xanh”

Phát triển kinh tế xanh và bảo vệ môi trường hiện đang là xu thế phát triển chung của hệ thống kinh tế toàn cầu. Việt Nam là quốc gia đang phát triển, để rút ngắn khoảng cách, tiếp cận với một nền kinh tế hiện đại, văn minh và hướng tới một “nền kinh tế xanh” trong tương lai không xa, cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện những cơ chế, chính sách sát thực. Đồng thời học tập cách thức tiến hành của các nước đi trước để có một lộ trình và bước đi phù hợp với tình hình thực tế.

PGS, TS Nguyễn Thế Chinh, Phó Viện trưởng Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết: “Kinh tế xanh và bảo vệ môi trường là hai phạm trù chứa đựng những nội hàm khác nhau, nhưng đang có xu hướng tiến gần nhau trong một phạm trù phổ biến đã được dùng trong mọi lĩnh vực là “Phát triển bền vững”. Từ Hội nghị thượng đỉnh về môi trường toàn cầu Ri-ô đờ Gia-nây-rô (năm 1992) ở Bra-xin về “Môi trường và Phát triển” đã khởi xướng “Chương trình nghị sự 21” về “Phát triển bền vững”. Kể từ đó đến nay, thế giới đã nỗ lực thực hiện chương trình này. Tại Việt Nam, tính đến nay có hơn 33 luật và hơn 20 pháp lệnh có nội dung liên quan đến công tác bảo vệ môi trường như: Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Đất đai, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng sản… Như vậy, về cơ bản chính sách bảo vệ môi trường, các văn bản pháp luật của chúng ta đã tương đối đầy đủ và được thực thi rộng rãi, dần đi vào chiều sâu với sự kết hợp hài hòa giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế – xã hội…

Bên cạnh đó, nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm tăng cường công tác bảo vệ môi trường phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước cũng được ban hành. Mới đây nhất, Hội nghị Ban Chấp hành T.Ư Đảng lần thứ 7, khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/T.Ư về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”, trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là “Thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững”. Đối với nội dung bảo vệ môi trường, Nghị quyết đã khẳng định “Phát triển ngành kinh tế môi trường trên cơ sở ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ bảo vệ môi trường và tái chế chất thải. Đẩy mạnh xã hội hóa bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, sản xuất và tiêu dùng bền vững”.

Thực tế cho thấy, vấn đề nhận thức, hiểu thế nào là một “nền kinh tế xanh” hiện nay ở nước ta vẫn là một khái niệm mới mẻ, đòi hỏi phải có những nghiên cứu và phổ biến rộng rãi kiến thức từ các cấp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và người dân. Trong khi đó, “nền kinh tế xanh” thường gắn liền với sử dụng năng lượng tái tạo, xây dựng xã hội các-bon thấp, đầu tư khôi phục hệ sinh thái và giải quyết sinh kế gắn liền với phục hồi môi trường… Tuy nhiên, công nghệ sản xuất tại Việt Nam hiện nay phần lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn, cho nên việc thay đổi công nghệ mới phù hợp với “nền kinh tế xanh” đang là thách thức không nhỏ nếu không có sự trợ giúp về vốn và công nghệ từ các nước phát triển. Việc huy động vốn cho thực hiện mục tiêu xây dựng “nền kinh tế xanh” vẫn còn nhiều khó khăn. Mặc dù Việt Nam đã thoát khỏi ngưỡng của nước nghèo nhưng tích lũy quốc gia còn quá thấp, lại chưa huy động được các nguồn lực của toàn xã hội, cho nên ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình triển khai hướng tới một “nền kinh tế xanh”…

Phát huy lợi thế về nguồn vốn tự nhiên sẵn có, khắc phục những hạn chế của nhiều nước trên thế giới đã gặp phải, cũng như hướng tới một “nền kinh tế xanh” trong tương lai, theo các chuyên gia cần tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới mô hình tăng trưởng, trọng tâm là cơ cấu lại nghề nghiệp, ưu tiên phát triển các ngành có công nghệ cao, phát thải các-bon thấp; công nghệ thân thiện với môi trường; sử dụng tiết kiệm năng lượng và tài nguyên, không gây ô nhiễm môi trường; phục hồi tài nguyên và hệ sinh thái. Đồng thời tăng cường đầu tư phát triển khoa học công nghệ trong nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề trong nội hàm của “nền kinh tế xanh” như: sử dụng năng lượng tái tạo; công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu hao ít năng lượng; công nghệ giảm phát thải khí nhà kính; hạn chế thấp nhất việc gây ô nhiễm môi trường. Đổi mới quy hoạch sử dụng đất cho phát triển đô thị, phát triển giao thông, khu công nghiệp, khu chế xuất, các công trình phúc lợi xã hội theo hướng dành quỹ đất đủ cho phát triển cây xanh, hồ nước và các công trình hạ tầng kỹ thuật môi trường theo quy định tiêu chuẩn quốc tế.

Việc cải cách lại hệ thống thuế tài nguyên và xem xét lại thuế môi trường hướng tới phát triển “nền kinh tế xanh” cũng cần sớm được điều chỉnh. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm thay đổi nhận thức của xã hội để tạo ra sự đồng thuận cao từ lãnh đạo đến người dân và doanh nghiệp, từ đó thay đổi quan điểm và nhận thức về một “nền kinh tế xanh”. Tăng cường sự hợp tác quốc tế trong nỗ lực xây dựng “nền kinh tế xanh” ở Việt Nam bằng việc huy động nguồn hỗ trợ của quốc tế, nhất là nguồn vốn đầu tư 2% GDP toàn cầu cho phát triển “nền kinh tế xanh”…

Theo nhandan.com.vn, ngày 13/04/2014

Ngày Môi trường thế giới 2014: Hãy hành động để ngăn nước biển dâng

bankimontrongrung

Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki Moon trồng cây

Hưởng ứng Năm Quốc tế các tiểu quốc đảo đang phát triển 2014 International Year of Small Island Developing States -SIDS), chủ đề Ngày Môi trường thế giới 05/6 (tạm dịch là): “Hãy hành động để ngăn nước biển dâng” (Raise your voice, not the sea level) hướng tới chủ đề rộng lớn là biến đổi khí hậu và tác động của nó.

​Thông qua đó hướng tới mục tiêu hỗ trợ cho chủ đề Hội nghị quốc tế lần thứ 3 về tiểu đảo diễn ra vào tháng 9 tới và sự cấp bách phải bảo vệ các hải đảo khi phải đối mặt với các rủi ro ngày càng tăng, đặc biệt là vấn đề biến đổi khí hậu.

Quốc đảo là nơi lưu giữ các nền văn hóa và các di sản độc đáo và đang dạng cũng như là nơi có hệ sinh thái, đa dạng sinh học và nhiều cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp. Tuy nhiên, các quốc đảo đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như biến đổi khí hậu, quản lý chất thải, tiêu thụ không bền vững, suy thoái tài nguyên thiên nhiên, thiên tai khắc nghiệt, là nạn nhân của sự gia tăng ô nhiễm và công nhgiệp hóa trên toàn cầu.

Trong đó, biến đổi khí hậu là thách thức hàng đầu, mặc dù các quốc đảo nhỏ chỉ phát thải CO2 hằng năm ít hơn 1% lượng phát thải trên toàn thế giới nhưng họ lại chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu và nước biên dâng. Ủy ban Quốc tế về biến đổi khí hậu (IPCC, năm 2007) đã ước tính rằng sự nóng lên toàn cầu sẽ khiến mực nước biển dâng lên từ 180 – 590 mm vào năm 2100. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây cho thấy những ước tính trên có khả năng tăng lên ít nhất hai lần.

Tính dễ bị tổn thương do sự biến đổi khí hậu, hạn chế về khả năng phục hồi sau thiên tai và sự đe dọa của đa dạng sinh học độc đáo trên các đảo. Trong 400 năm qua, đã có 724 loài động vật bị tuyệt chủng, khoảng một nửa trong số đó là các loài ở hải đảo, và có ít nhất 90% số loài chim đã tuyệt chủng trong cùng thời gian ở các đảo trên.

Cộng đồng ven biển ở mọi quốc gia sẽ bị đe dọa do lũ lụt và triều cường, trong đó các hải đảo nhỏ là những nơi sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nhiều quốc đảo với dân cư và các nền văn hóa sẽ bị nước biển nhấn chìm.

Tại Lễ khai mạc Năm Quốc tế các tiểu quốc đảo đang phát triển 2014, Tổng Thư ký LHQ Ban-Ki-moon kêu gọi : “Trái Đất chính là hòn đảo chung của tất cả chúng ta, vì vậy hãy cùng nhau bảo vệ trái đất”.

Theo nghiên cứu của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), việc chuyển đổi này sẽ tạo cơ hội cho các tiểu quốc đảo quản lý vốn tự nhiên tốt hơn, bảo vệ môi trường, tạo ra các việc làm xanh để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ.

Theo nguồn UNEP

Công nghệ pin nhiên liệu và kinh tế hydrogen

Trong cuộc khủng hoảng dầu mỏ những năm 1970, General Motor đã nêu sáng kiến nên chuyển dần nền kinh tế dựa vào dầu mỏ sang nền kinh tế dựa vào hydrogen (hydrogen economy) nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn dầu mỏ bất ổn ở Trung Đông và tránh được sự đổ vỡ nền kinh tế khi trữ lượng dầu mỏ đến ngày cạn kiệt.

hydrogen

Hydrogen là nguyên tố có nhiều nhất, cấu tạo nên 90% vật chất trong vũ trụ và trái đất; hiệu suất cháy của nó cao hơn dầu mỏ (60% so với 25%). Khi đốt hydrogen chỉ có một sản phẩm phụ duy nhất là nước, không kèm bất cứ chất thải nào có hại cho môi trường như khi đốt xăng dầu. Có nhiều cách sản xuất hydrogen, trong đó có biện pháp điện phân nước, mà nước chiếm 70% diện tích trái đất. Tóm lại hydrogen là nguồn năng lượng tái sinh sạch nhất, hiệu suất cao nhất và có nguồn cung cấp vô tận. Bởi vậy kinh tế hydrogen sẽ là nền kinh tế bền vững lý tưởng nhất của loài người.

Về nguyên tắc, tất cả các phương tiện chuyên chở chạy bằng xăng dầu đều có thể chuyển sang chạy bằng hydrogen. Khi ấy năng lượng hóa học của hydrogen được chuyển thành năng lượng cơ học bằng cách đốt hydrogen trong động cơ đốt trong, hoặc cho hydrogen phản ứng với oxygen trong pin nhiên liệu (FC, fuel cell), qua đó sinh ra điện. FC sẽ cung cấp cho nhân loại nguồn điện sạch và bền vững; sản phẩm phụ của nó chỉ là nước. Dùng hydrogen để chạy xe và phát điện là hai lĩnh vực rất có triển vọng, nhất là xe chạy pin nhiên liệu hydrogen (fuel cell vehicle, FCV). Tuy vậy giá thành FC hiện nay còn quá đắt khiến giá FCV bị đội cao quá mức thị trường có thể chấp nhận. Vì thế việc nghiên cứu hoàn thiện công nghệ FC và xây dựng hệ thống cung cấp hydrogen cho các xe FCV trở thành nhiệm vụ chính trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế hydrogen.

hydrogen2

Tại Mỹ, từ 5/2001 Tổng thống Bush đã đề xuất kế hoạch phát triển năng lượng hydrogen. Tháng 2/2002 ông đưa ra Báo cáo Triển vọng dài hạn nước Mỹ chuyển sang kinh tế hydrogen năm 2030. Năm sau lại đề xuất Sáng kiến nhiên liệu hydrogen (HFI) nhằm thương mại hóa xe dùng FC hydrogen. Năm 2008 Mỹ đã chi 1 tỷ USD cho HFI. Tháng 2/2004, Bộ Năng lượng Mỹ (DOE) đưa ra dự án nghiên cứu triển khai công nghệ năng lượng hydrogen kèm biểu tiến độ thực hiện. Thời gian 2004~2008, Mỹ đã chi 1,7 tỷ USD cho nghiên cứu phát triển công nghệ FC.

Chính phủ Obama mới đầu không chủ trương phát triển kinh tế hydrogen vì cho rằng xe FCV có giá thành quá cao. Năm 2009, Steven Chu (Nobel Vật lý 1997) tân Bộ trưởng DOE cắt giảm ngân sách nghiên cứu FC từ 250 triệu USD xuống còn 70 triệu. Đến năm 2012 Chu đã thay đổi quan điểm, cho rằng do nước Mỹ có nguồn cung cấp khí đốt rồi rào nên xe dùng FC hydrogen có tiềm năng phát triển. Tháng 7/2012 DOE đầu tư 2,4 triệu USD xây dựng các trạm bơm hydrogen; sau đó lại cấp 1 triệu USD cho việc phân tích giá thành sản xuất vận chuyển nhiên liệu hydrogen. Ngày 13/5/2013, DOE khởi động Dự án H2USA với nội dung chính phủ và các công ty hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển nhiên liệu hydrogen. Ngày 12/6/2013, lại cấp 9 triệu USD để phát triển công nghệ hydrogen và FC.

EU, nhiều nước phương Tây, Nhật và Hàn Quốc cũng hăng hái nghiên cứu phát triển công nghệ FC và các loại xe chạy FC hydrogen. Một số loại FCV của Nhật và Hàn Quốc hiện đang được thị trường Mỹ ưa dùng.

Nhưng tiến trình chuyển đổi kinh tế dầu mỏ sang kinh tế hydrogen gặp sự chống đối từ giới công nghiệp dầu mỏ, vì họ không muốn chịu thiệt khi dầu mỏ mất địa vị thống trị nền kinh tế. Trước tiên, các mỏ dầu và nhà máy luyện dầu (giá bình quân 1 tỷ USD mỗi nhà máy) sẽ phải đóng cửa. Công nghệ FC chưa hoàn thiện cũng cản trở sự chuyển đổi nói trên. Ngoài ra từ thập niên 80, công nghệ thăm dò khai thác dầu mỏ có tiến bộ nhảy vọt, phát hiện nhiều mỏ dầu mới, giới kinh doanh lại lao vào đầu tư khai thác dầu mà coi nhẹ việc nghiên cứu sử dụng hydrogen.

Chính phủ Mỹ vẫn chưa chọn hydrogen làm nguồn năng lượng chính, mà muốn dùng khí đốt hóa lỏng thay cho dầu mỏ, vì gần đây Mỹ đã tự túc, thậm chí xuất khẩu khí đốt. TT Obama chủ trương đẩy mạnh sản xuất điện bằng khí đốt, phát triển ô tô chạy điện ăc quy, đặt các trạm nạp điện cho ô tô, đồng thời cắt giảm chi phí nghiên cứu FCV.

Chuyển sang nền kinh tế hydrogen là một công việc dài hạn và tốn kém, trong lúc các chính phủ đều phải dồn sức đạt được mục tiêu tăng trưởng trước mắt. Vì vậy kinh tế hydrogen hiện nay chưa được phát triển như dự kiến, nhưng các nhà khoa học vẫn tin rằng cuối cùng loài người sẽ từ bỏ dầu mỏ mà chuyển sang dùng hydrogen.

Để thúc đẩy tiến trình chuyển đổi nói trên, năm 2003 đã thành lập một tổ chức quốc tế là Chương trình đối tác Kinh tế hydrogen và Pin nhiên liệu (The hydrogen economy and fuel cell partnership program, IPHE), thành viên gồm EU và 17 nước : Australia, Áo, Brazil, Canada, Trung Quốc, Đức, Pháp, Iceland, Ấn Độ, Ý, Nhật, Hàn quốc, Na Uy, Nga, Nam Phi, Anh, Mỹ. Hàng năm Ban Chỉ đạo IPHE đều họp 2 lần để nghe Ban Thư ký IPHE và các nước thành viên báo cáo tình hình đầu tư phát triển công nghệ pin nhiên liệu FC và năng lượng hydrogen, trao đổi thông tin và bàn công tác phối hợp nghiên cứu.

hydrogen3

Hội nghị lần thứ 19 Ban chỉ đạo IPHE đã họp tại London trong hai ngày 23-24/5/2013. Cuộc họp cho thấy các nước đều tăng đầu tư vào lĩnh vực giao thông, như Đức có dự án H2Mobility, Anh có UKH2Mobility. Mỹ vừa chính thức khởi động dự án H2USA nhằm tăng tốc xây dựng cơ sở hạ tầng thiết bị hydrogen, thương mại hóa FCV. EU đang thực hiện dự án CPT (Clean Power for Transport), đầu tư 123 triệu Euro xây dựng 77 trạm bơm hydrogen chạy xe tại 15 nước đã có hệ thống trạm này. Trên lĩnh vực ứng dụng cố định, các trạm thông tin dùng FC có triển vọng rất tốt. Hội nghị cũng bàn vấn đề phát triển nền kinh tế hydrogen trong tình hình cơ cấu nguồn năng lượng thế giới đang có sự điều chỉnh lớn do xuất hiện cuộc cách mạng khí đá phiến (shale gas).

Theo Nguyễn Hải Hoành, tiasang.com.vn

 

Mười ý tưởng công nghệ xanh táo bạo

Biến đổi khí hậu, bế tắc giao thông, khủng hoảng đói nghèo: vấn đề đặt ra trong thế kỷ này có lẽ là làm thế nào để bảo đảm sự sống còn của nhân loại. Vấn đề càng lớn bao nhiêu thì các giải pháp càng phải có tầm nhìn lớn bấy nhiêu. Chúng tôi xin giới thiệu mười nhà nghiên cứu đưa ra những ý tưởng công nghệ nổi bật nhằm thay đổi thế giới.

Elon Musk: Tàu bánh sắt siêu âm

Ông là người đã đơn giản hoá việc thanh toán trên Internet bằng PayPal, đưa ô tô điện vào cuộc sống thông qua Tesla Roadster và tư nhân hoá các chuyến bay lên vũ trụ với Space X. Tới đây nhà phát minh, doanh nhân 43 tuổi này còn muốn tặng thế giới một loại phương tiện giao thông hoàn toàn mới lạ có tốc độ gấp hai lần máy bay nhưng giá lại rẻ hơn.

Ông Musk đang phát triển một loại tàu nhanh có tên Hyperloop, có sức mạnh của máy bay Concorde cộng với khẩu pháo. Ở khẩu pháo này, đầu đạn tăng tốc nhờ tác động của từ trường. Theo Musk, Hyperloop sẽ chỉ cần khoảng nửa tiếng đồng hồ để chạy quãng đường 600 km từ San Francisco tới Los Angeles.

Hơn thế nữa, tàu có thể sử dụng hoàn toàn năng lượng mặt trời do các tế bào quang điện đặt dọc tuyến đường cung cấp. Chi phí xây dựng tuyến đường này hết khoảng sáu tỷ đôla – chỉ bằng một phần mười chi phí đầu tư xây dựng tuyến đường sắt cao tốc ở California.

Heinrich Bülthoff: Đến văn phòng bằng máy bay không người lái

Thiết bị bay không người lái chạy điện Mycopter

Ô tô có thể chạy theo ba hướng: đi thẳng, rẽ hay chạy lùi. Khi bị ùn tắc thì ô tô chết dí một chỗ. Trong khi đó còn có một hướng đi nữa dành cho chúng mà không được tận dụng, đó là thăng thiên. Một nhóm các chuyên gia quốc tế đang nghiên cứu về cái hướng đi lên này, dự án này của EU mang tên Mycopter.

Mục tiêu: tạo đường trên không để ô tô bay được điều khiển bằng máy tính có thể đưa thẳng hành khách tới tận nơi làm việc – từ đó giảm tiêu hao năng lượng không cần thiết. Ý tưởng này không hoàn toàn là không tưởng: trong thực tế đã có những “con lai” đầu tiên giữa máy bay và ô tô, thí dụ Model Transition của Terrafugia, một doanh nghiệp khởi nghiệp ở Mỹ. Doanh nghiệp e-Volo ở Karlsruhe, Đức thậm chí đang thử nghiệm một loại trực thăng chạy điện dễ dàng điều khiển.

Dưới sự điều hành của giáo sư Heinrich Bülthoff, thuộc Viện Max-Planck về điều khiển học sinh học ở Tübingen, các nhà nghiên cứu về Mycopter muốn làm rõ, phải làm gì để tiếp tục phát triển các thiết bị bay loại này thành vật thể bay không người lái để vận chuyển hành khách, cũng như chính quyền phải ứng xử như thế nào trước những đổi thay này: trong tương lai, những người tự bay cần có bằng loại gì, quản lý giao thông bay cá nhân sẽ diễn ra như thế nào, sự tích hợp của loại hình giao thông này ở các thành phố sẽ ra sao. Các nhà nghiên cứu muốn có những lời đáp cho những câu hỏi trên để việc đi lại bằng vật thể bay cũng đơn giản như đi lại bằng ô tô.

Eduard Heindl: Biến núi thành bình ắc quy

150514_congnghexanh2

Theo các nhà khoa học, một tảng đá đè lên một cột nước có thể tích một lượng điện lên đến hai Terawatt/giờ năng lượng – tương đương lượng điện mà cả nước Đức tiêu thụ trong khoảng 30 giờ đồng hồ.

Để chuyển đổi hoàn toàn sang năng lượng tái tạo, nước Đức phải dịch chuyển những quả núi, đúng như nghĩa đen của từ đó. Đây là đề nghị của nhà khoa học ĐH Khoa học ứng dụng Furtwangen. Nhà vật lý này có ý định xây một công trình tích năng lượng khổng lồ bằng đá hoa cương, và đây sẽ là công trình nổi bật vì sự đồ sộ tương tự như Ayers Rock ở Australia.

Ông Heidl dự kiến dùng thiết bị khoan đường hầm và máy cưa đá để tách một khối đá hoa cương hình trụ (hoặc hình ống), có chiều cao trên 500 mét và đường kính một kilômét. Những kẽ hở và bề mặt của khối đá này sẽ được trát thật phẳng để bảo đảm độ khít. Lượng điện dư thừa từ các cột điện gió và từ tế bào quang điện bảo đảm cho hoạt động của cỗ máy bơm khổng lồ này, trụ đá nén khối nước khổng lồ ở bên dưới để từ đó đẩy trụ lên hàng trăm mét. Khi lưới điện cần năng lượng – thí dụ khi lặng gió – nước sẽ chảy bên dưới trụ đá hoa cương và làm cho turbine hoạt động.

Chi phí xây dựng cái gọi là kho lưu trữ năng lượng này có thể lên tới cả tỷ Euro và có thể tích được khoảng 2.000 Gigawatt giờ điện – nhiều gấp 40 lần lượng điện lưu trữ của tất cả các nhà máy bơm tích điện hiện nay của nước Đức và bằng lượng điện mà nước Đức tiêu thụ trong một ngày.

Matt Watson: Làm nguội trái đất

150514_congnghexanh3

Khi con người đã biết nhân bản cừu, đã có thể dời non chuyển núi – vậy thì còn ngại ngần gì mà không tạo ra một hoạt động của núi lửa? Đây chính là điều mà nhà nghiên cứu Matt Watson muốn đạt được với dự án Projekt SPICE của mình nhằm chấm dứt sự nóng lên của trái đất.

Nhà khoa học thuộc Đại học Bristol của Anh muốn làm được cái mà núi lửa Pinatubo (Philippines) đã từng gây ra, vụ núi lửa này bùng nổ vào năm 1991 đã làm cho nhiệt độ trái đất giảm nửa độ C vì tro núi lửa bốc lên tới tầng bình lưu và che ánh nắng mặt trời. Watson cũng muốn thổi lớp tro bụi lên tới tầng bình lưu thông qua một cái ống gắn vào phần cuối một quả cầu hellium khổng lồ lên đến độ cao 20 km. Một tầu thuỷ chạy trên biển là cơ sở phục vụ cho toàn bộ quá trình này.

Thử nghiệm lắp đặt đầu tiên ở quy mô nhỏ dự định tiến hành vào năm 2012 nhưng đã phải ngưng lại. Nay Watson có ý định phát triển ý tưởng của mình trước hết ở trong phòng thí nghiệm.

Yasuyuki Fukumuro: Tạo ra điện trên không gian

150514_congnghexanh4

Trong tương lai nhà máy điện mặt trời trên không gian có thể phóng năng lượng xuống trái đất.

Vị trí tốt nhất để làm nhà máy điện mặt trời ở đâu? Theo Yasuyuki Fukumuro, phụ trách dự án Space Solar Power Systems thuộc Cơ quan Nghiên cứu Vũ trụ Nhật bản Jaxa, thì vị trí thích hợp nhất để đặt nhà máy điện mặt trời là trên quỹ đạo trái đất. Đây là nơi luôn chói chang ánh sáng mặt trời, không bao giờ có mây che phủ – đó là những đặc điểm nổi bật của vị trí này.

Fukumuro dự định sẽ truyền tải điện thông qua tia vi sóng tới một trạm trên mặt đất. Một nghiên cứu của International Academy of Astronautics cho hay, từ 10 đến 20 năm tới có thể xây dựng nhà máy điện đầu tiên trên quỹ đạo.

Tuy nhiên việc bắn các tế bào quang điện lên vũ trụ bằng tên lửa có hiệu quả hay không, đây còn là chuyện rất xa vời. Một điều chắc chắn phải được giải quyết là làm sao để giảm đáng kể trọng lượng của tế bào quang điện, hay sản xuất chúng thông qua máy in ngay trên vũ trụ.

Claudio Lenoardi: Máy bay gá lắp

150514_congnghexanh5

Việc gá lắp các khoang máy bay sẽ làm cho hành khách cũng như hành lý, hàng hoá lên máy may nhanh chóng hơn. Đến một ngày nào đó người ta có thể gá lắp các container chứa khí hydro hay các thùng chứa bình ắc quy vào những chiếc máy bay dùng năng lượng điện.

Claudio Leonardi, một nhà nghiên cứu thuộc Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ Lausanne đang xúc tiến một đề án mang tên Clip-Air , theo đó hành khách đi máy bay trong tương lai khi xuất phát từ một ga xe lửa có thể lên khoang đa chức năng đi thẳng ra sân bay bằng đường sắt, từ đây lên thẳng máy bay mà không cần hoàn tất các thủ tục để lên máy bay.

Có thể lắp tới ba cabin, mỗi cabin dài 30 mét tại sân bay vào một loại máy bay chuyên dụng. Mỗi cabin có thể chứa tới 150 hành khách, tương đương một máy bay Airbus-A320. Cũng có thể gá lắp các khoang chở hàng hoá, hành lý theo nhu cầu vào chiếc máy bay này.

Ý tưởng này còn tiếp tục được Đại học Glasgow phát triển. Hệ thống Horizon của họ gồm một tàu lượn hoạt động bằng điện, luôn ở gần một đường băng chuyên dụng ở sân bay và chỉ tiếp đất khi ca bin tàu hỏa tới và gá lắp vào, sau đó lại cất cánh bay tiếp. Bên cạnh hành khách trong các ca bin này còn có các bình ắc quy mới nạp điện để máy bay có thể tiếp tục bay. Khi hạ cánh, những ca bin này tách khỏi máy bay và chạy tiếp đến các thành phố khác thông qua truyền động từ tính.

Michael Sterner: Tàu thuỷ trở thành máy phát điện

Hiện đã có một số ý tưởng về việc khai thác năng lượng từ biển cả. Tuy nhiên chưa có phương án nào tiến xa như phương án của Michael Sterner, giáo sư về tích năng lượng và hệ thống năng lượng thuộc ĐH Khoa học ứng dụng Regensburg, Đức. Ông dự định dùng những tàu thuỷ dài khoảng 100 mét điều khiển bằng computer hoạt động trên Bắc Đại tây dương để tạo ra khí hydro.

Ngay khi có gió đẩy tàu chạy, dòng nước sẽ làm cho turbine tích hợp trong con tàu tạo ra điện từ đó thông qua điện phân để sản xuất khí hydro. Sterner cho rằng, trong điều kiện thuận lợi về gió, con tàu có thể tạo ra năng lượng ổn định dưới dạng khí hydro và tích trong những thùng lớn. Sau đó, khí hydro sẽ được bơm sang những thùng lớn trên bờ và nguồn năng lượng này có thể sử dụng thí dụ với ô tô chạy bằng khí hydro.

Cánh buồm là những Flettnerrotor, đây là những turbine gió dạng thẳng đứng. Một con tàu có thể tạo ra hai Megawatt điện. Các bộ phận cấu thành hiện đã có – giờ cần có người đứng ra đóng con tàu năng lượng đầu tiên này.

Edmund Kelly: Nhà máy điện mặt trời bồng bềnh

Thông thường các nhà máy điện mặt trời có năng suất cao hơn khi được mặt trời chiếu sáng nhiều hơn. Vì vậy từ lâu các nhà khoa học đã lên kế hoạch xây dựng các nhà máy điện mặt trời trên sa mạc và thậm chí cả trên không gian. Nhà nghiên cứu Edmund Kelly ở California và doanh nghiệp khởi nghiệp Stratosolar của ông đang tính đến một phương án mới: xây dựng các nhà máy điện mặt trời và neo lơ lửng trên tầng bình lưu.

Những quả bong bóng khổng lồ chứa hàng nghìn tấn khí nhiên liệu mang theo những tế bào quang điện mỏng dính lên bầu trời ở độ cao 20 km.

Đây là nơi mặt trời chiếu sáng liên tục suốt cả ngày, không có gió và không khí rất lạnh do đó hiệu suất của điện mặt trời ở đây cao hơn nhiều so với ở trên mặt đất. Dòng điện từ quả bóng quang điện trên không khổng lồ được truyền qua giây cáp xuống trái đất, dây cáp này đồng thời cũng là giây neo bong bóng. Theo tính toán của nhà nghiên cứu Kelly, mặc dù chi phí xây dựng cực kỳ lớn nhưng giá thành điện mặt trời trên tầng bình lưu rẻ hơn gấp ba lần so với giá thành điện mặt trời trên trái đất hiện nay.

Neil Palmer: Tái tạo điện từ những tia chớp

Bầu khí quyển trái đất có điện tích cực lớn. Mỗi ngày trên thế giới có tới ba triệu tia chớp trên bầu trời. Một nhóm nghiên cứu thuộc ĐH Southampton (Anh) do nhà vật lý Neil Palmer đứng đầu cùng với các nhà nghiên cứu của hãng chế tạo điện thoại di động Phần Lan Nokia đã xem xét khả năng tận dụng năng lượng này để vận hành các thiết bị điện trong cuộc sống của chúng ta.

Các nhà khoa học đã tạo được những tia chớp mạnh 200.000 Volt ở trong phòng thí nghiệm, họ dùng một thiết bị thu chuyên dụng để tiếp nhận nguồn năng lượng này và nạp dòng điện vào một Lumia-925-Smartphone, mà không làm tổn hại đến chiếc điện thoại di động. Cũng với cách tương tự, các nhà nghiên cứu khác cũng sử dụng những cột tháp khổng lồ để bắt các tia chớp và từ đó gặt hái điện từ không khí. Vấn đề là ở chỗ: việc này diễn ra như thế nào và liệu có hiệu quả hay không, đây vẫn là những câu hỏi còn để ngỏ.

Louis Michaud: Lấy điện từ những cơn lốc xoáy

Kỹ sư Louis Michaud đang nghiên cứu tại một cơ sở thí nghiệm về nhà máy điện lốc xoáy.

Lốc xoáy là nỗi kinh hoàng với rất nhiều người. Riêng kỹ sư Louis Michaud người Canada lại thấy lốc xoáy cực kỳ hấp dẫn đến mức ông tìm cách tạo ra chúng. Viên kỹ sư này muốn cùng doanh nghiệp khởi nghiệp Avetec của mình xây dựng các nhà máy điện tạo lốc xoáy để làm ra điện. Ông sử dụng nguồn khí thải nóng từ các nhà máy luyện thép hay nhà máy nhiệt điện cho chạy qua những ống khói cao và không khí bốc lên cao theo chiều xoắn ốc.

Không khí bên ngoài lạnh hơn nên phía trên ống khói hình thành một lực hút xoáy, điều này tạo ra một lốc xoáy cao khoảng 40 mét. Nhà nghiên cứu Michaud hy vọng năng lượng hình thành ở đây đủ để vận hành một turbine ở dưới chân tháp và từ đó tạo ra điện.

Bằng cách này có thể dùng khí thải nóng của một nhà máy điện chạy than công suất 500 Megawatt tạo ra lốc xoáy trong tháp thêm một lượng điện lên tới 200 Megawat.

Kỹ sư Michaud đã nhận được một sự hỗ trợ đắc lực của Peter Thiel, nguyên CEO ở PayPal và là nhà đầu tư số một tại Facebook – ông này đóng góp 300.000 đôla để xây dựng một nguyên mẫu.

Theo Xuân Hoài/Tạp chí Tia Sáng, 14/05/2014

CAS – Bảo quản chất lượng hoàn hảo cho nông, thủy sản và thực phẩm Việt Nam

Theo Viện Nghiên cứu và Phát triển Vùng- Bộ Khoa học và Công nghệ, công nghệ CAS (Cells Alive System) có thể bảo quản nông sản, thủy sản, thực phẩm tươi ngon đến 99% trong thời gian 10 năm. CAS sẽ có mặt tại Chợ Công nghệ và Thiết bị chuyên ngành Công nghệ Thực phẩm 2013 – Techmart Công nghệ Thực phẩm 2013 sẽ diễn ra từ ngày 03-05/10/2013 tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ TP.HCM, 79 Trương Định, Phường Bến Thành, Quận 1, TP. HCM.

Là nước có thế mạnh về nông nghiệp, thế nhưng các nông/thủy sản của Việt Nam thường rơi vào tình trạng các sản phẩm xuất khẩu bị trả về, bị ép giá do chất lượng không đảm bảo hoặc được mùa thì mất giá và không người mua. Từ thực tế này, những nhà khoa học, những doanh nghiệp đã bỏ không ít công sức và tiền của để nghiên cứu và thử nghiệm những công nghệ mới nhằm bảo quản và nâng cao chất lượng nông, thủy sản, hạn chế rủi ro trong quá trình canh tác và xuất khẩu.

Vừa qua, Viện Nghiên cứu và Phát triển vùng – Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) công bố đã phối hợp với Tập đoàn ABI (Nhật Bản) đưa vào sử dụng phòng thí nghiệm công nghệ CAS đã gây được tiếng vang lớn trong cả nước. Công nghệ CAS có thể bảo quản nông sản, thủy sản, thực phẩm tươi ngon đến 99% trong thời gian 10 năm. Đây là công nghệ đã được áp dụng rất hiệu quả tại nhiều doanh nghiệp chế biến và kinh doanh hải sản, nông sản, thịt gia súc, gia cầm và thực phẩm tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Nhật Bản, Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Ireland, Anh, Hàn Quốc.
Với hy vọng việc ứng dụng công nghệ CAS tại Việt Nam sẽ góp phần vào công cuộc đổi mới lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch tạo nên bước đột phá trong bảo quản hàng hóa, hải sản và nông sản nhiệt đới của Việt Nam nhằm tiến tới xuất khẩu cũng như phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới.
Để giúp nông dân, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, thủy sản và thực phẩm ở khu vực phía Nam hiểu rõ hơn về công nghệ này, Techmart Công nghệ Thực phẩm 2013 đã phối hợp với Viện Nghiên cứu và Phát triển vùng – Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức buổi hội thảo giới thiệu “Công nghệ bảo quản nông sản, thực phẩm (CAS – Cells Alive System).
Đôi nét về công nghệ CAS:
Nguyên lý của công nghệ CAS là làm lạnh đông nhanh với chức năng CAS (bản chất là từ trường) làm cho nước trong sản phẩm sẽ liên kết với nhau thành cụm nhỏ vài ba phân tử mà không đóng băng thành khối như lạnh đông thông thường. CAS không phá vỡ cấu trúc mô tế bào, không làm biến tính các hợp chất sinh học. Kết quả lạnh đông CAS là giữ được chất lượng sản phẩm tươi nguyên như ban đầu.
Đây là công nghệ tiên tiến bậc nhất về bảo quản hải sản, nông sản và thực phẩm trên thế giới do Tập đoàn ABI là chủ sở hữu độc quyền sáng chế, đã được công nhận tại 22 quốc gia, Liên minh châu Âu (EU) và bảo hộ trên toàn thế giới.
Các dạng thiết bị với công nghệ CAS:
– Thiết bị CAS.
– Trang bị thêm chức năng CAS.
– Máy lạnh đông với chức năng CAS (CAS freezer).
– Tủ bảo quản lạnh đông với chức năng giao động điều hòa. 
– Kho bảo quản lạnh đông với chức năng giao động điều hòa. 
Công nghệ CAS khi tích hợp với tủ đông lạnh có những ưu điểm sau:
– Không tan nhỏ giọt khi thực phẩm đông lạnh rã đông.
– Thiết lập giữ nước cho thực phẩm.
– Giữ được độ ngon.
– Giữ được amino axit.
– Giữ được độ tươi và hương vị ban đầu.
– Giữ được màu của thực phẩm.
– Không bị ôxy hóa.
– Hạn chế sự biến chất protein.
Minh họa hệ thống CAS làm lạnh đông nước và chất màu: 
Thiết bị làm lạnh đông nhanh có kết hợp với hệ thống CAS đã làm lạnh đông hỗn hợp nước và các chất màu một cách đồng đều. 
 Thiết bị làm lạnh đông nhanh không kết hợp với hệ thống CAS nên khi làm lạnh đông hỗn hợp nước và chất màu bị đóng băng thành 2 phần riêng rẽ.
Theo CESTI

Quỹ Ủy thác tín dụng xanh: Cơ hội cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sạch hơn

Các DN sản xuất sẽ có cơ hội đổi mới công nghệ sản xuất để sử dụng hiệu quả nguyên, nhiên liệu, năng lượng, hướng đến sản xuất sạch hơn (SXSH) nhờ nguồn vốn từ Quỹ Ủy thác tín dụng xanh.

Quỹ Ủy thác tín dụng xanh: Cơ hội cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sạch hơn

Quỹ Ủy thác tín dụng xanh hỗ trợ DN đầu tư đổi mới công nghệ
Theo các chuyên gia, SXSH đang ngày càng trở thành xu hướng chung của DN bởi SXSH có thể giúp các DN tiết kiệm tài chính thông qua giảm lãng phí năng lượng, nguyên nhiên vật liệu, phụ gia… từ đó giúp DN nâng cao hiệu suất hoạt động, nâng cao sự ổn định của sản xuất và chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, SXSH còn giúp các DN thu hồi phế liệu, phế phẩm, cải thiện môi trường làm việc, cải thiện hình ảnh DN, tiết kiệm chi phí… Tuy nhiên, rào cản lớn nhất của SXSH chính là khoản đầu tư để đổi mới công nghệ tương đối cao.
Quỹ Ủy thác tín dụng xanh (GCTF) được thành lập từ một sáng kiến hỗ trợ tài chính của Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO) dành cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư trung và dài hạn vào công nghệ sạch hơn trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Tại Việt Nam, đối tượng được hỗ trợ tài chính của GCTF là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) bởi những DN này thường hay gặp phải những trở ngại như thiếu vốn, khó tiếp cận với nguồn tín dụng từ ngân hàng do không đủ tài sản thế chấp… khi đứng trước những hạng mục đầu tư lớn (đổi mới thiết bị/công nghệ). Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam (VNCPC) là đơn vị điều phối nguồn vốn của quỹ này.
Nguyễn Lê HằngĐiều phối viên GCTF cho biết, GCTF hoạt động theo hình thức phối hợp với 3 ngân hàng tại Việt Nam là ACB, Techcombank, VIB tiến hành thẩm định các dự án đổi mới công nghệ của các DN đăng ký tham gia để đánh giá mức hỗ trợ phù hợp. Nếu các dự án đổi mới thiết bị, công nghệ của DN đạt được các tiêu chí về giảm thiểu tác động đến môi trường (theo bảng đánh giá do VNCPC đưa ra) thì DN sẽ nhận được hỗ trợ tài chính từ quỹ theo 2 hình thức là bảo lãnh tối đa 50% tổng giá trị khoản vay và thưởng từ 15-25% tổng giá trị khoản vay.
Ví dụ, một DN có nhu cầu vay 1 tỷ đồng để đổi mới thiết bị công nghệ, nếu tham gia vào quỹ và đạt được các tiêu chí đánh giá hỗ trợ tối đa thì sẽ được quỹ bảo lãnh 500 triệu đồng tiền thế chấp khi vay vốn ngân hàng và được thanh toán 250 triệu đồng tiền nợ gốc khi dự án hoàn thành và đi vào hoạt động.
Thời gian xem xét cho một dự án là 75 ngày, triển khai đầu tư trong 3-6 tháng. Đối tượng, ngành nghề được hỗ trợ là các DN sản xuất công nghiệp, dịch vụ và thương mại muốn thay đổi phương thức sản xuất, đầu tư thiết bị mang lại hiệu quả môi trường. Những loại hình công nghiệp tiềm năng là sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất giấy, chế biến thực phẩm, sản xuất thép, luyện kim, da và sản xuất hóa chất… “Do mục đích của quỹ là hướng đến các DN nhỏ và vừa nên các DN có vốn điều lệ dưới 5 triệu USD, số công nhân viên dưới 1.000 người, và có 51% vốn thuộc sở hữu trong nước đều có thể tiếp cận chương trình hỗ trợ của quỹ” – bà Hằng cho hay.
Tính đến thời điểm hiện tại, đã có 60 DN tại Việt Nam gửi hồ sơ tham gia chương trình hỗ trợ của GCTF, trong đó 40 hồ sơ đã đạt đủ các điều kiện sàng lọc ban đầu, 30 dự án đã được phê duyệt kỹ thuật và 12 dự án đã được ngân hàng giải ngân cho vay.
Bà Hằng cho biết thêm, trong thời điểm hiện nay, quy mô hỗ trợ tín dụng của quỹ đối với 1 dự án mới chỉ dao động từ 10.000 đến 1 triệu USD. Tuy nhiên, các ngân hàng có thể cung cấp khoản tín dụng lớn hơn và sẽ có những ưu tiên cho các DN chứng minh được hiệu quả dự án vay đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với môi trường./.
Theo báo Kinh tế Việt Nam, ven.vn

Hỗ trợ doanh nghiêp đầu tư, đổi mới công nghệ: Mưa chưa… mát mặt!

Hỗ trợ đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ giúp doanh nghiệp (DN) tháo gỡ khó khăn, tăng năng lực cạnh tranh, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế đang gặp nhiều khó khăn là một chương trình khuyến công được cộng đồng DN địa phương đánh giá cao. Tuy đã đạt được những kết quả tích cực nhưng do nguồn vốn còn hạn hẹp, vướng mắc về cơ chế nên việc khuyến công, hỗ trợ DN đổi mới thiết bị, công nghệ cũng mới chỉ như một cơn mưa… chưa mát mặt!

Kết quả ban đầu

Trong 9 tháng đầu năm 2013, Trung tâm Khuyến công Bình Dương (TTKC) đã tập trung hỗ trợ cho các DN đầu tư đổi mới máy móc thiết bị bằng cả 2 nguồn vốn Trung ương và địa phương. Công ty TNHH Kim Thành A được hỗ trợ đầu tư mới cho dây chuyền sản xuất ván sàn, Công ty TNHH SX-TM-DV Hiệp Sanh được giúp đầu tư dây chuyền sản xuất bao bì, với tổng kinh phí thực hiện gần 11,6 tỷ đồng. TTKC cũng đã hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, ứng dụng máy móc thiết bị hiện đại, tiến bộ kỹ thuật cho 8 DN với tổng kinh phí thực hiện hơn 8,8 tỷ đồng.

Ngoài ra, TTKC còn giúp các DN có dự án đầu tư mới được thụ hưởng chương trình khuyến công là Công ty CP SX-TM Quang Minh với hệ thống máy hút ẩm cho sản phẩm mây tre lá xuất khẩu; DNTN May Quốc Tế với máy ép mùn cưa trong sản xuất thanh gỗ nén và máy móc thiết bị cho các DN sản xuất đồ gỗ khác, như: Công ty TNHH SX-TM Gia Gia Phát (dây chuyền sơn bóng trong sản xuất đồ gỗ nội thất), Cơ sở Hữu Chuẩn (máy cưa xả gỗ), Công ty CP Phú An Sinh (dây chuyền sản xuất viên gỗ nén), Công ty TNHH Khải Nguyên (máy móc thiết bị trong sản xuất ván ép), Công ty TNHH MTV Thanh Phong (sản phẩm máy chạm trổ điêu khắc tự động CNC trong chế biến đồ gỗ nội thất) và Công ty TNHH TM-SX Sao Nam (máy cưa rong lưỡi dưới trong sản xuất đồ gỗ nội thất)…

Mưa chưa… mát mặt!

Sự quan tâm, hỗ trợ của TTKC cũng đã nhận được nhiều phản ứng tích cực từ phía cộng đồng DN. Bà Phan Lê Diễm Trang, Giám đốc DNTN May Quốc Tế cho biết, những năm qua TTKC đã luôn đồng hành cùng DN trong các chương trình đào tạo lao động mới. Trong năm 2013, trung tâm đã giúp DNTN May Quốc tế đầu tư mở rộng công nghệ mới, mở rộng ngành nghề sản xuất, kinh doanh. Tuy vậy, theo ông Lương Ngọc Kim, Giám đốc Công ty TNHH Kim Thành A, dù TTKC đã quan tâm hỗ trợ DN trong các chương trình tiết kiệm năng lượng, sản xuất sạch hơn, đầu tư công nghệ mới… nhưng DN vẫn mong muốn có được định mức hỗ trợ cao hơn. Trên thực tế, mức hỗ trợ về kinh phí cho DN hiện còn khiêm tốn so số vốn đầu tư của DN. Thêm vào đó, số DN được hỗ trợ đầu tư cũng còn đếm trên đầu ngón tay trong khi số lượng DN nhỏ và vừa, DN thuộc diện được hỗ trợ tại Bình Dương lên đến hàng ngàn!

Cũng phải nói thêm rằng, do tình hình kinh tế khó khăn, giá cả đầu vào tăng, đầu ra giảm, hầu hết các DN gặp khó khăn về vốn trong sản xuất, kinh doanh, nên DN cũng khó tập trung nguồn vốn cho việc đầu tư các dự án khuyến công. Một số DN đã đăng ký kế hoạch thực hiện các đề án khuyến công trong năm nhưng do kẹt vốn nên không thể thực hiện kế hoạch dự kiến ban đầu. Một số dự án khuyến công “giữa đường đứt gánh” do trễ hẹn vì thời gian từ khi đăng ký kế hoạch đến khi phê duyệt kinh phí chi tiết thực hiện tương đối dài, làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, kinh doanh của DN…

Cần thêm những giải pháp

Để làm tốt vai trò đại diện, đồng hành hỗ trợ DN, nhất là trong giai đoạn kinh tế khó khăn như hiện nay, ông Lê Văn Chí, Giám đốc TTKC Bình Dương kiến nghị: Bộ Công thương và Bộ Tài chính sớm ban hành thông tư liên tịch về hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí khuyến công quốc gia và kinh phí khuyến công địa phương đối với hoạt động khuyến công để địa phương có cơ sở thực hiện. Các bộ cần sớm ban hành quyết định phê duyệt chương trình khuyến công quốc gia giai đoạn 2014-2020, giúp các địa phương làm căn cứ xây dựng chương trình khuyến công địa phương; cần giảm bớt một số thủ tục cho một số nội dung khuyến công như công tác đào tạo nghề, hỗ trợ sử dụng máy móc thiết bị hiện đại vào các khâu sản xuất… Bộ Công thương và Bộ Nội vụ sớm có thông tư hướng dẫn về xây dựng chi nhánh khuyến công cấp huyện và hệ thống cộng tác viên khuyến công cấp xã để địa phương có cơ sở kiện toàn hệ thống tổ chức khuyến công, nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động này tại địa phương.

Các đối tượng DN thụ hưởng chương trình khuyến công cũng “hiến kế”: TTKC cần tìm hiểu các thông tin về công nghệ, sản phẩm, thị trường, thiết bị sản xuất để cung cấp và tư vấn cho các cơ sở, DN sản xuất, DN công nghệ thông tin. TTKC cần tăng cường bám sát cơ sở, tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc trong quá trình đầu tư sản xuất, kinh doanh, từ đó có những biện pháp hỗ trợ kịp thời; tăng cường định mức kinh phí cho các đề án khuyến công, nhất là các đề án đổi mới công nghệ…

Theo baobinhduong.org.vn

Tăng cường trách nhiệm của Ngân hàng với môi trường

Ngân hàng Nhà nước đang dự thảo Thông tư quy định về quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Ngân hàng Nhà nước cho biết, quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta trong thời gian qua còn chưa quan tâm thích đáng đến yếu tố môi trường và xã hội của các dự án đầu tư. Theo Ngân hàng nhà nước, ngành ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc duy trì tăng trưởng kinh tế và phát triển thông qua hoạt động cho vay và đầu tư bởi vì hệ thống này là một mắt xích quan trọng trong việc quyết định nguồn vốn đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế – xã hội. Các tổ chức tín dụng đóng vai trò là yếu tố tăng cường tác động phát triển tích cực tới xã hội và cũng góp phần vào việc bảo vệ cộng đồng và môi trường tại những nơi các tổ chức tín dụng và khách hàng của các tổ chức tín dụng đang hoạt động.

Do đó, trong tương lai ngành ngân hàng Việt Nam phải xây dựng được chiến lược kinh doanh phù hợp với chiến lược của Nhà nước đã đề ra về bảo vệ môi trường, theo đó, các dự án đầu tư có nguồn vốn tín dụng ngân hàng tham gia phải bị ràng buộc bởi những quy định về bảo vệ môi trường và tiết kiệm năng lượng. Về phía các tổ chức tín dụng, việc thực hiện chính sách tín dụng bền vững sẽ đảm bảo cho tổ chức tín dụng hạn chế rủi ro, hoạt động an toàn, hiệu quả và bền vững.

Chính vì vậy, tại dự thảo của Ngân hàng Nhà nước quy định: Hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội là tập hợp các chính sách, quy trình quản lý và thủ tục đánh giá, giám sát rủi ro môi trường và xã hội đối với dự án, phương án của khách hàng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cấp tín dụng.

Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (tổ chức tín dụng) phải xây dựng và triển khai thực hiện hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội tại đơn vị mình để thực hiện việc quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng đối với khách hàng.

Tại dự thảo, Ngân hàng Nhà nước khuyến khích tổ chức tín dụng chủ động quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong điều hành hoạt động nội bộ nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội và tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên. Đồng thời, chủ động phát triển và cải tiến sản phẩm, tìm kiếm và khai thác những cơ hội kinh doanh thân thiện với môi trường và xã hội.

Ngân hàng Nhà nước yêu cầu tổ chức tín dụng báo cáo bằng văn bản cho Ngân hàng Nhà nước (Vụ Tín dụng các ngành kinh tế) về hoạt động quản lý rủi ro môi trường và xã hội theo định kỳ hàng quý.

Báo cáo này bao gồm số lượng và tỷ lệ các giao dịch tín dụng tuân thủ theo Quy trình quản lý rủi ro môi trường và xã hội của tổ chức tín dụng; tỷ lệ các giao dịch được xếp loại rủi ro thấp, trung bình và cao; và số lượng hồ sơ cấp tín dụng bị từ chối và/hoặc được chấp nhận vì lý do môi trường và/hoặc xã hội.

Bên cạnh đó, hàng năm, tổ chức tín dụng cũng phải báo cáo Ngân hàng nhà nước về hoạt động quản lý rủi ro môi trường và xã hội. Báo cáo bao gồm các nội dung: năng lực quản lý rủi ro môi trường và xã hội của tổ chức; phương pháp giám sát và đảm bảo quản lý rủi ro môi trường và xã hội hiệu quả và công tác báo cáo nội bộ về hoạt động môi trường và xã hội của tổ chức.

Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến góp ý dự thảo trên website của cơ quan này.

Theo Chinhphu.vn

Nhiên liệu sinh khối: Sinh tiền tấn

Những phế phẩm như mùn cưa, vỏ trấu… lại trở thành một mặt hàng được săn mua trong thời gian qua đẩy thị trường tưởng chừng như phế phẩm bỏ đi trở nên rất sôi động và đắt giá: từ buôn bán nguyên liệu sinh khối, trồng rừng, chứng chỉ trồng rừng rồi đến cả thị trường khí thải.

Nhu cầu về nhiên liệu sinh khối từ châu Âu, Nhật Bản tăng vọt đã có tác động không nhỏ tới thị trường này tại Việt Nam. Mùn cưa, vỏ trấu, bã mía… đột ngột trở thành những mặt hàng nhiều giá trị.

Mùn cưa ép thành… vàng

                                                                                                                                  Ảnh: Quý Hòa
 
Liên tiếp trong tháng qua, văn phòng của Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM (HAWA) nhận được các lời chào mua thu gom tất cả phế phẩm mùn cưa của tất cả thành viên HAWA, với đơn chào lên đến hơn 10.000 tấn mùn cưa mỗi tháng!

 Tất nhiên, HAWA không thể gom đủ số lượng này nên khách hàng sốt ruột muốn mua hết cả các loại dăm, bào, gỗ vụn, giá tùy thỏa thuận, có thể lên đến 500.000 đồng/tấn mùn cưa.

Đơn hàng đến từ một công ty tại TP.HCM. Mùn cưa sau khi thu mua được chuyển tới nhà máy tại Bình Dương để nén thành viên, đóng gói bán sang các thị trường châu Âu, Nhật Bản. Được biết, viên nén mùn cưa được thế giới xem như một dạng nhiên liệu sinh khối thay thế dầu, khí ga, than đá….

Nenryo cũng là một công ty thương mại kinh doanh mùn cưa từ nhiều năm nay. Theo ông Phạm Phú Thành, Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Nenryo, trong các dạng năng lượng sạch dành cho nhiệt điện, vỏ trấu cũng như mùn cưa là nguyên liệu có giá trị rất cao và có rất nhiều tại Việt Nam.

Số liệu của Nenryo cho thấy, ở Việt Nam lượng phụ phẩm như vỏ trấu là 6,8 triệu tấn/năm trong đó riêng ĐBSCL chiếm 3,7 triệu tấn; phụ phẩm mùn cưa là 5,8 triệu tấn/năm trong đó riêng Tây Nguyên chiếm 2,5 triệu tấn, miền Trung chiếm 1,15 triệu tấn/năm.

Đa số viên nén sản xuất tại Việt Nam và các nước trong khu vực đều xuất khẩu vào châu Âu và Nhật. Đây là những thị trường có nhu cầu rất lớn về nhiên liệu sinh khổi bởi họ đã đổi mới công nghệ và bắt đầu lộ trình sử dụng năng lượng bền vững.

Riêng tại Việt Nam cũng có nhiều các dự án nhiệt điện sử dụng rác thải trong quá trình sản xuất mía đường như: Nhà máy nhiệt điện Lam Sơn – tận dụng nguyên liệu từ quá trình sản xuất mía đường của Công ty CP Mía đường Lam Sơn…

“Thu mua sản phẩm này rất khó khăn vì các nhà máy sản xuất nằm riêng lẻ với công suất thấp, khoảng 500 – 1.000 tấn, tối đa là 2.000 -3.000 tấn, trong khi các đơn mua hàng thường đặt khoảng 10.000 -20.000 tấn.

Theo giá tham chiếu của châu Âu thì giá bán nguyên liệu phải có đủ Chứng chỉ FSC (Chứng chỉ trồng, quản lý và khai thác rừng bền vững), nhưng các nhà cung cấp ở Việt Nam lại hầu hết không có chứng chỉ này nhưng giá bán lại lấy giá tham chiếu làm chuẩn”, ông Thành cho biết.

Để gom đủ số lượng, nhà máy phải huy động nhiều đầu mối thu gom mùn cưa từ Bình Dương, Đồng Nai cho đến Đắc Lắc. Giá thu mua mùn cưa đã chế biến khoảng 500.000đ/tấn, nhưng sau khi xử lý nén và đóng gói có thể xuất FOB với giá lên tới hơn 300 USD/tấn.

Tuy nhiên, theo ông Thành, so với tiềm năng thì Việt Nam chỉ mới chỉ cung cấp 600.000 tấn/năm để xuất khẩu ra nước ngoài. Còn thực tế, chưa xuất khẩu được vì hầu hết các nhà sản xuất Việt Nam chưa hiểu hiều rõ tiêu chí cũng như yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm. Thực tế, các nhà sản xuất hiện nay vẫn còn nhỏ lẻ, hoạt động manh mún.

Đa phần nhập máy Trung Quốc vì sản xuất và không đạt tiêu chuẩn kỹ thuật khi xuất khẩu vào Nhật hay thị trường châu Âu nên mất khả năng cạnh tranh…

Chẳng hạn, theo tiêu chuẩn châu Âu, hàm lượng tro đối với sản phẩm viên nén gỗ là 0,3 – 0,5%, nhưng khả năng cung cấp của Việt Nam là 1,5 – 2% nên châu Âu không nhập. Hoặc độ ẩm sản phẩm viên nén gỗ, yêu cầu của chấu Âu và Nhật là 4 – 6% nhưng sản phẩm của Việt Nam tới 7 – 8%.

Theo ông Thành, nếu xuất một lượng lớn mùn cưa từ 10.000 tấn/tháng sang Nhật sẽ đòi hỏi phải xuất trình được chứng chỉ FSC. Nếu có chứng chỉ trồng rừng và đạt các tiêu chuẩn liên quan đến môi trường thì giá mùn cưa có thể lên đến 400 – 500USD/tấn.

Theo tính toán, mùn cưa dùng trong nhiên liệu công nghiệp khá hiệu quả. Với lò hơi, việc từ than đá chuyển sang dùng củi mùn cưa chi phí có thể giảm đến hơn 50%. Từ dầu FO chuyển sang củi ép mùn cưa, chi phí có thể giảm đến 70%. Nếu sản xuất 2,5 tấn mùn cưa thành nhiên liệu đốt trong nước, Việt Nam giảm nhập khẩu khoảng 1.000 lít dầu.

Để có được FSC, nhiều nhà đầu tư tại Việt Nam sẵn sàng bỏ ra hàng trăm ngàn đến cả triệu USD để hợp tác với các nhà trồng rừng tại Việt Nam. Được biết, Nenryo cũng đang đàm phán bước đầu với các nhà trồng rừng tại Đắc Nông và Bình Dương, cùng với kế hoạch xây dựng các nhà máy ép mùn cưa tại Thanh Hóa, Hải Phòng.

Theo ông Ngụy Như Trọng, Giám đốc Công ty Phúc Nguyên, thị trường nguyên liệu sinh khối bao gồm mùn cưa, bã mía, vỏ cà phê có nhu cầu rất lớn.

Hiện nay, Phúc Nguyên xuất hàng vào thị trường Đức, Ba Lan, Hà Lan… mỗi tháng khoảng vài ngàn tấn. Giá giao động từ 220 – 250 USD /1 tấn, tùy thuộc vào thị trường EU hay châu Á.

Còn theo ông Phạm Bành Tiến, Giám đốc Công ty Hùng Đại Dương, nhu cầu thị trường thì rất lớn, nhưng tìm nguồn nguyên liệu không phải là dễ, khách hàng cung cấp loại nguyên liệu này không phải thường xuyên mà theo thời vụ.

Do đó, doanh nghiệp gặp khó khăn khi nhận đơn hàng lớn, đảm bảo số lượng đã ký hợp đồng. Ngoài ra, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này gặp khó khăn khi văn bản pháp luật chưa quy định rõ ràng về mã ngành này mà chủ yếu đăng ký với lĩnh vực kinh doanh: phế phẩm từ nông lâm sản.

Điều này, gây khó khăn khi doanh nghiệp tiếp xúc với khách hàng lớn trong khi lĩnh vực hoạt động không rõ ràng, đăng ký thì trong bảng mã ngành kinh tế quốc dân chưa có. 

 Theo Doanhnhansaigon.vn 

Các cơ sở sản xuất công nghiệp phải thường xuyên cập nhật giải pháp tiết kiệm năng lượng

Đó là một trong những nội dung của Thông tư số 02/2014/TT-BCT vừa được Bộ Công Thương ban hành, quy định các biện pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong các ngành công nghiệp (gọi tắt là các quá trình dùng chung) và các biện pháp quản lý, các giải pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong ngành hóa chất.

Ảnh Internet

Theo đó, với ngành công nghiệp, hiệu quả sử dụng năng lượng và mục tiêu hiệu quả năng lượng của các quá trình dùng chung phải được phản ánh trong kế hoạch hàng năm và kế hoạch 5 năm về sử dụng năng lượng của các cơ sở sản xuất công nghiệp.

Hiệu quả sử dụng năng lượng của các quá trình dùng chung và mức độ đạt được các mục tiêu về hiệu quả năng lượng theo kế hoạch của các quá trình dùng chung phải được trình bày trong báo cáo kiểm toán năng lượng, báo cáo tình hình sử dụng năng lượng hàng năm.

Các cơ sở sản xuất công nghiệp phải có kế hoạch nghiên cứu, triển khai các giải pháp tiết kiệm năng lượng và các giải pháp tiết kiệm năng lượng thực tế. Các giải pháp tiết kiệm năng lượng phải được nghiên cứu, bổ sung và cập nhật thường xuyên.

Thông tư cũng quy định cụ thể việc sử dụng năng lượng trong quá trình đốt nhiên liệu; Trong hệ thống cấp nhiệt và hệ thống lạnh; Hệ thống điều hòa không khí, cấp nước nóng; Động cơ điện; Hệ thống khí nén; Tận dụng thải từ các hệ thống đốt nhiên liệu, hệ thống cấp nhiệt, truyền nhiệt; Công nghệ chiếu sáng và quản lý chiếu sáng trong nhà máy sản xuất, văn phòng của doanh nghiệp…

Về việc ngăn ngừa tổn thất điện năng, Thông tư quy định, hệ thống phải được thiết kế để tránh các dạng tổn thất sau: Tổn thất điện áp, tổn thất do lệch pha, tổn thất do hệ số công suất nhỏ, tổn thất máy biến áp, tăng chi phí mua điện do vận hành giờ cao điểm.

Với ngành hóa chất, Thông tư đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong ngành công nghiệp hóa chất như: Sử dụng động cơ hiệu suất cao; Sử dụng máy biến tần phù hợp; Khí hóa từ củi thay tế nhiên liệu dầu/LPG cho hệ thống sấy liệu; Cải thiện hệ thống quản lý năng lượng; Giảm hệ số hoàn lưu trong quy trình sản xuất; Sử dụng biến tần phù hợp; Tối ưu hóa hệ thống khí nén.

Thông tư này có hiệu lực từ ngày 1/6/2014.

Theo website của Bộ công thương moit.gov.vn