Lộ trình gắn trách nhiệm doanh nghiệp với vòng đời sản phẩm

Doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu có trách nhiệm tiếp nhận sản phẩm thải bỏ do mình đã bán sản phẩm đó ra thị trường Việt Nam.

Theo Trung tâm Phát triển và hội nhập (CDI), trung bình mỗi năm, một người Việt Nam thải ra môi trường khoảng 1kg rác thải điện tử. Với 90 triệu dân, tổng lượng rác thải điện tử lên tới 90.000 tấn/năm.

Trong khi đó, nghiên cứu của các chuyên gia cho thấy, rác thải điện tử có nguy cơ “hủy diệt” môi trường (không khí, đất, nước) và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người.

Cơ chế tác động của rác thải điện tử đến ô nhiễm môi trường chủ yếu do các thiết bị điện, điện tử cũ được tháo dỡ với công nghệ và thiết bị cũ, lạc hậu, thủ công, liên quan đến nhiều người lao động và chỉ tái chế các vật liệu thông thường. Việc thải bỏ chủ yếu qua phương thức bán, cho người sử dụng tiếp theo hoặc bán cho người thu gom, cửa hàng dịch vụ; giữ lại nhà hoặc vứt bỏ với rác thải sinh hoạt… Sự thiếu hụt các công nghệ tháo dỡ, tái chế, thải bỏ trong xử lý đã dẫn tới việc không kiểm soát được các thành phần không tái chế, đồng thời thiếu hụt những giải pháp bảo vệ môi trường phù hợp là nguyên nhân chính gây ra tác động có hại của chất thải điện, điện tử đến môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Đứng trước mối lo ngại về môi trường và để ngành công nghiệp điện tử phát triển bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 50/2013/QĐ-TTg quy định về thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ quy định về thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ.

Quyết định này áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu, người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ trên lãnh thổ Việt Nam. Quyết định cũng ban hành kèm theo danh mục sản phẩm thải bỏ, thời điểm thu hồi, xử lý. Quyết định nêu rõ doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu phải thiết lập các điểm thu hồi sản phẩm thải bỏ. Điểm thu hồi là nơi tiếp nhận sản phẩm thải bỏ phù hợp quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, có nghĩa là phải đáp ứng được các yêu cầu về kỹ thuật, chẳng hạn như tại điểm thu hồi thì sản phẩm thải bỏ được lưu giữ trong thùng kín, không rò rỉ, rơi vãi, phát tán ra môi trường. Doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu có trách nhiệm tiếp nhận sản phẩm thải bỏ do mình đã bán sản phẩm đó ra thị trường Việt Nam.

Theo Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Bùi Cách Tuyến, đây là cơ sở pháp lý quan trọng trọng quy định cụ thể trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên liên quan trong việc sản xuất, lưu thông, xử lý các sản phẩm thải bỏ. Quyết định này đã gắn trách nhiệm của doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu đối với sản phẩm do mình bán ra thị trường cho đến khi sản phẩm bị thải bỏ và được xử lý đảm bảo môi trường. Việc quy định trách nhiệm đối với toàn bộ vòng đời của sản phẩm có ý nghĩa quan trọng, thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng cải tiến công nghệ, quy trình sản xuất để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao và thân thiện với môi trường.

Để đảm bảo tính khả thi, Quyết định đưa ra lộ trình thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đủ thời gian cần thiết chuẩn bị cơ sở vật chất, nguồn lực thực hiện việc thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ. Theo đó, từ ngày 1/1/2016, tổ chức thu hồi và xử lý máy sao chụp giấy (photocopier), tivi, tủ lạnh, máy điều hòa nhiệt độ, máy giặt và săm, lốp các loại thải bỏ. Tiếp đến, các loại phương tiện giao thông như xe môtô, xe gắn máy, xe ôtô các loại thải bỏ sẽ bị thu hồi và xử lý từ ngày 1/1/2018.

Theo các chuyên gia, quyết định này được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cụ thể, không chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định hiện hành về quản lý chất thải. Gắn trách nhiệm của doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu sản phẩm và người tiêu dùng chắc chắn sẽ giúp đạt hiệu quả trong vấn đề xử lý sản phẩm thải bỏ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường./.

 

Quyết định số 50/2013/QĐ-TTg ngày 9/8/2013 quy định thời điểm các sản phẩm thải bỏ phải thu hồi:

Từ ngày 1/1/2015: Bóng đèn compact; bóng đèn huỳnh quang; máy vi tính, màn hình máy vi tính, cục CPU, máy in, máy fax, máy scan, máy chụp ảnh, máy quay phim, điện thoại di dộng, máy tính bảng, hóa chất sử dụng trong công – nông nghiệp, thủy sản và thuốc sử dụng cho người.

Từ 1/1/2016: Máy Photocopy, máy giặt, máy điều hòa nhiệt độ, săm lốp ôtô các loại.

Từ ngày 1/1/2018: Xe gắn máy, xe ôtô các loại.

Theo VEN

 

Mức tiêu thụ gia tăng đang làm cạn kiện tài nguyên thiên nhiên

Báo cáo công bố ngày 7/6 của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) cho biết, kể từ năm 2000, giá các kim loại đã tăng 176%, giá cao su tăng 350% và giá năng lượng tăng 260%.

Xu hướng này báo hiệu mức độ tiêu thụ gia tăng đang làm cạn kiện nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo của thế giới.

Ông Achim Steiner, Phó Tổng Thư ký Liên hợp quốc kiêm Giám đốc điều hành UNEP, nhấn mạnh việc gia tăng mức độ sử dụng tài nguyên thiên nhiên trên toàn thế giới đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường cũng như làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, và nguyên nhân là do sự gia tăng dân số và thu nhập.

090614_tainguyen-500x340

 

Sản xuất vàng thỏi tại Los Angeles, Mỹ (Ảnh: AFP/TTXVN)

Theo ông Steiner, cải thiện đáng kể về năng suất là một yếu tố quan trọng của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, giúp đưa khoảng một tỷ người thoát khỏi đói nghèo, đồng thời có thể quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên cần thiết phục vụ cho nhu cầu của 9 tỷ người vào năm 2050. Điều này đòi hỏi phải xem xét lại ngay lập tức tình hình thực tiễn hiện nay, hỗ trợ đầu tư mạnh mẽ vào đổi mới công nghệ, tài chính và xã hội.

Công nghệ tiên tiến có thể giúp giảm 40% mức sử dụng năng lượng trong các hoạt động chế tạo, luyện kim đối với các kim loại như kẽm, thiếc, đồng. Nhu cầu năng lượng có thể giảm 50-80% thông qua việc cải thiện hiệu quả các hệ thống sản xuất và tiện ích. Các lĩnh vực như xây dựng, nông nghiệp, khách sạn, công nghiệp và giao thông vận tải có thể tiết kiệm năng lượng và nước tới 60-80% nếu có khả năng thương mại hợp lý. Những chính sách thay đổi như vậy có thể mang lại sự ổn định và lợi ích kinh tế lâu dài. Bằng cách áp dụng các công nghệ mới ít tiêu thụ tài nguyên, các nước đang phát triển có thể làm giảm mức tăng nhu cầu năng lượng hàng năm từ 3,4% xuống 1,4% trong 12 năm tới, trong khi vẫn đạt được mục tiêu phát triển.

Báo cáo của UNEP được xây dựng dựa trên một nghiên cứu trước đó, trong đó cảnh báo rằng mô hình tiêu thụ của các quốc gia phát triển cùng với việc gia tăng dân số và thu nhập sẽ đưa mức tiêu thụ trung bình mỗi năm của nhân loại lên đến 140 tỷ tấn khoáng sản, quặng, nhiên liệu hóa thạch và sinh khối vào năm 2050, trừ phi tăng trưởng kinh tế không kéo theo sự gia tăng nhu cầu. Con số trên gấp ba lần so với mức tiêu thụ hồi năm 2000 và nhiều khả năng vượt quá tất cả các nguồn lực sẵn có hiện tại cùng với các giới hạn của hành tinh này để hấp thụ các tác động của việc khai thác và sử dụng.

Theo TTXVN

Máy bay năng lượng Mặt Trời hoàn thành bay thử đầu tiên

Máy bay chạy bằng năng lượng Mặt Trời Solar Impulse 2 đã kết thúc thành công chuyến bay thử đầu tiên, vượt qua trở ngại lớn nhất để hướng tới mục tiêu thực hiện chuyến bay vòng quanh thế giới vào năm 2015.

Phát biểu trước báo giới tại một căn cứ không quân ở Payenrne (Thụy Sĩ), phi công người Đức Markus Scherdel- người thực hiện chuyến bay- cho biết chuyến bay kéo dài 2h15’, lâu hơn dự kiến 30 phút. Mọi hoạt động diễn ra đúng dự định. Scherdel cũng cho biết Solar Impulse 2 còn phải được bay thử thêm nhưng đây là một sự khởi đầu tốt đẹp.

Solar Impulse 2 được sản xuất bằng sợi carbon, nặng 2,3 tấn với 4 động cơ 17,5 mã lực được cấp điện nhờ 17.248 tấm pin mặt trời. Các tấm pin này được lắp vào thân và sải cánh máy bay, dài tới 72 mét, tương đương sải cánh máy bay Airbus A380. Mục tiêu dành cho Solar Impulse 2 là bay không ngừng trong hơn 120 giờ (tương đương 5 ngày và 5 đêm), vượt qua Thái Bình Dương và Đại Tây Dương.

Máy bay chạy bằng năng lượng Mặt Trời Solar Impulse 2 đã kết thúc thành công chuyến bay thử đầu tiên (Ảnh: elnacional.com.do)

Máy bay chạy bằng năng lượng Mặt Trời Solar Impulse 2 đã kết thúc thành công chuyến bay thử đầu tiên (Ảnh: elnacional.com.do)

Tiền thân của Solar Impulse 2 là Solar Impulse, chiếc máy bay đạt kỷ lục thực hiện chuyến bay dài 26 giờ hồi năm 2010. Điều này cho thấy pin trong máy bay có thể nạp đủ nhiên liệu vào ban ngày để dùng vào ban đêm. Năm ngoái, Solar Impulse cũng đã bay qua châu Âu, qua Địa Trung Hải đến Marocco và vượt qua Mỹ mà không cần sử dụng nhiên liệu hóa thạch.

Dự kiến, chuyến bay vòng quanh thế giới của Solar Impulse 2 vào tháng 3/2015 sẽ bắt đầu từ vùng Vịnh để tận dụng điều kiện mây thấp ở Trung Đông và sẽ có vài chặng dừng chân. Máy bay sẽ vượt qua Biển Arab để đến Ấn Độ, Myanmar và Trung Quốc.

Tiếp đó, máy bay sẽ vượt Thái Bình Dương, bay qua nước Mỹ, Đại Tây Dương, Nam Âu và cuối cùng là Bắc Phi trước khi trở về điểm xuất phát.

Tốc độ ban đêm của máy bay là 46 km/h nhằm tránh pin cạn quá nhanh. Phi công có thể chợp mắt trên ghế “hạng thương gia” do có “người đồng hành” là thiết bị đánh thức và báo cáo bất kỳ trục trặc nào đến bộ phận kiểm soát chuyến bay đặt tại Thụy Sĩ.

Chủ dự án phát triển máy bay sử dụng năng lượng mặt trời là Bertrand Piccard, người đầu tiên bay quanh thế giới bằng khinh khí cầu khí nóng và Andre Borschberg, nguyên là một phi công trong lực lượng không quân Thụy Sĩ. Hai ông cho rằng pin năng lượng mặt trời kết hợp cùng vật liệu siêu nhẹ có thể biến máy bay sử dụng năng lượng mặt trời thành hiện thực.

Theo Thu Huyền/Chinhphu.vn, 03/06/2014

 

Quỹ Ủy thác tín dụng xanh đồng hành cùng Techcombank cung cấp Gói giải pháp tài chính toàn diện và ưu đãi tài chính vượt trội dành riêng cho các doanh nghiệp phát triển “xanh”

Ngày 30/5/2014, tại Vĩnh Phúc, Tổng Công ty Điện lực miền Bắc (EVN NPC) đã tổ chức Hội thảo “Khách hàng sử dụng năng lượng trọng điểm 2014” nhằm giới thiệu lợi ích và hướng dẫn thực hiện giải pháp kiểm toán năng lượng và các mô hình quản lý năng lượng hiệu quả. Với vai trò là ngân hàng duy nhất cung cấp các giải pháp tài chính tối ưu dành riêng cho các doanh nghiệp tham gia kiểm toán năng lượng, Ngân hàng Techcombank cũng giới thiệu đến nhóm đối tượng này nhiều ưu đãi tài chính vượt trội tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển “xanh” một cách bền vững.

Theo đó, bên cạnh các giải pháp tài chính toàn diện đáp ứng tất cả các nhu cầu về tài chính của doanh nghiệp từ tín dụng, giao dịch, quản lý dòng tiền…, Techcombank còn mang đến nhiều ưu đãi vượt trội dành riêng cho nhóm doanh nghiệp tham gia kiểm toán năng lượng: 

• Gói tín dụng với với lãi suất ưu đãi, thời hạn khoản vay lên đến 24 tháng, phương thức trả gốc và tài sản đảm bảo linh hoạt, thủ tục nhanh gọn 

• Doanh nghiệp có cơ hội nhận được gói hỗ trợ đặc biệt từ Quỹ Ủy thác tín dụng xanh (GCTF) do Chính phủ Thụy Sỹ tài trợ tài chính không hoàn lại và bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư mới hoặc thay thế các dây chuyền công nghệ mới

Năng lượng đang trở thành mối quan tâm lớn của toàn nhân loại, đặc biệt trong bối cảnh các nguồn năng lượng không tái tạo ngày càng khan hiếm. Tại Việt Nam, nghiên cứu cho thấy, nhu cầu dùng điện mỗi năm tăng rất nhanh, tối thiểu là 12 – 13% – đạt mức gấp đôi tốc độ tăng trưởng GDP nhưng mức độ tăng trưởng ngành năng lượng trong nước lại chỉ đáp ứng được khoảng 60% yêu cầu. Với mức tiêu thụ năng lượng như vậy, nguồn năng lượng của Việt Nam sẽ trở nên khan hiếm và cạn kiệt, trong khi tình trạng lãng phí năng lượng cho sản xuất, xây dựng… hiện nay rất lớn. Cùng với đó, hiệu suất sử dụng nguồn năng lượng thấp so với các nước phát triển đã khiến giá thành sản phẩm tăng cao và làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế. Điều này cho thấy vai trò và tầm quan trọng của doanh nghiệp trọng điểm trong việc tiết kiệm năng lượng, không chỉ giúp doanh nghiệp giảm chi phí mà còn đóng góp cho sự phát triển bền vững của cả cộng đồng. 

Để tiết kiệm năng lượng một cách hiệu quả, khâu kiểm toán năng lượng đóng một vai trò quan trọng. Đây là cách thức để doanh nghiệp nhận diện những bất hợp lý, thất thoát, sử dụng không hiệu quả.. từ đó đánh giá được tiềm năng tiết kiệm năng lượng. Sau kiểm toán, chuyên gia tư vấn sẽ đề xuất cho doanh nghiệp các giải pháp sử dụng năng lượng tối ưu nhất, giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào trong sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, gia tăng cạnh tranh. 

Gói giải pháp tài chính toàn diện cùng với những ưu đãi của Techcombank là nền tảng tài chính quan trọng giúp doanh nghiệp tham gia kiểm toán năng lượng thực hiện hiệu quả các giải pháp tiết kiệm năng lượng thông qua việc nâng cấp hệ thống dây chuyền sản xuất, công nghệ. Từ đó, doanh nghiệp sẽ đạt hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng cao hơn, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao giá trị thương hiệu, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. 

Tin từ techcombank.com.vn

Hướng tới một “nền kinh tế xanh”

Phát triển kinh tế xanh và bảo vệ môi trường hiện đang là xu thế phát triển chung của hệ thống kinh tế toàn cầu. Việt Nam là quốc gia đang phát triển, để rút ngắn khoảng cách, tiếp cận với một nền kinh tế hiện đại, văn minh và hướng tới một “nền kinh tế xanh” trong tương lai không xa, cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện những cơ chế, chính sách sát thực. Đồng thời học tập cách thức tiến hành của các nước đi trước để có một lộ trình và bước đi phù hợp với tình hình thực tế.

PGS, TS Nguyễn Thế Chinh, Phó Viện trưởng Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết: “Kinh tế xanh và bảo vệ môi trường là hai phạm trù chứa đựng những nội hàm khác nhau, nhưng đang có xu hướng tiến gần nhau trong một phạm trù phổ biến đã được dùng trong mọi lĩnh vực là “Phát triển bền vững”. Từ Hội nghị thượng đỉnh về môi trường toàn cầu Ri-ô đờ Gia-nây-rô (năm 1992) ở Bra-xin về “Môi trường và Phát triển” đã khởi xướng “Chương trình nghị sự 21” về “Phát triển bền vững”. Kể từ đó đến nay, thế giới đã nỗ lực thực hiện chương trình này. Tại Việt Nam, tính đến nay có hơn 33 luật và hơn 20 pháp lệnh có nội dung liên quan đến công tác bảo vệ môi trường như: Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Đất đai, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng sản… Như vậy, về cơ bản chính sách bảo vệ môi trường, các văn bản pháp luật của chúng ta đã tương đối đầy đủ và được thực thi rộng rãi, dần đi vào chiều sâu với sự kết hợp hài hòa giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế – xã hội…

Bên cạnh đó, nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm tăng cường công tác bảo vệ môi trường phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước cũng được ban hành. Mới đây nhất, Hội nghị Ban Chấp hành T.Ư Đảng lần thứ 7, khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/T.Ư về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”, trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là “Thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững”. Đối với nội dung bảo vệ môi trường, Nghị quyết đã khẳng định “Phát triển ngành kinh tế môi trường trên cơ sở ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ bảo vệ môi trường và tái chế chất thải. Đẩy mạnh xã hội hóa bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, sản xuất và tiêu dùng bền vững”.

Thực tế cho thấy, vấn đề nhận thức, hiểu thế nào là một “nền kinh tế xanh” hiện nay ở nước ta vẫn là một khái niệm mới mẻ, đòi hỏi phải có những nghiên cứu và phổ biến rộng rãi kiến thức từ các cấp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và người dân. Trong khi đó, “nền kinh tế xanh” thường gắn liền với sử dụng năng lượng tái tạo, xây dựng xã hội các-bon thấp, đầu tư khôi phục hệ sinh thái và giải quyết sinh kế gắn liền với phục hồi môi trường… Tuy nhiên, công nghệ sản xuất tại Việt Nam hiện nay phần lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn, cho nên việc thay đổi công nghệ mới phù hợp với “nền kinh tế xanh” đang là thách thức không nhỏ nếu không có sự trợ giúp về vốn và công nghệ từ các nước phát triển. Việc huy động vốn cho thực hiện mục tiêu xây dựng “nền kinh tế xanh” vẫn còn nhiều khó khăn. Mặc dù Việt Nam đã thoát khỏi ngưỡng của nước nghèo nhưng tích lũy quốc gia còn quá thấp, lại chưa huy động được các nguồn lực của toàn xã hội, cho nên ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình triển khai hướng tới một “nền kinh tế xanh”…

Phát huy lợi thế về nguồn vốn tự nhiên sẵn có, khắc phục những hạn chế của nhiều nước trên thế giới đã gặp phải, cũng như hướng tới một “nền kinh tế xanh” trong tương lai, theo các chuyên gia cần tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới mô hình tăng trưởng, trọng tâm là cơ cấu lại nghề nghiệp, ưu tiên phát triển các ngành có công nghệ cao, phát thải các-bon thấp; công nghệ thân thiện với môi trường; sử dụng tiết kiệm năng lượng và tài nguyên, không gây ô nhiễm môi trường; phục hồi tài nguyên và hệ sinh thái. Đồng thời tăng cường đầu tư phát triển khoa học công nghệ trong nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề trong nội hàm của “nền kinh tế xanh” như: sử dụng năng lượng tái tạo; công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu hao ít năng lượng; công nghệ giảm phát thải khí nhà kính; hạn chế thấp nhất việc gây ô nhiễm môi trường. Đổi mới quy hoạch sử dụng đất cho phát triển đô thị, phát triển giao thông, khu công nghiệp, khu chế xuất, các công trình phúc lợi xã hội theo hướng dành quỹ đất đủ cho phát triển cây xanh, hồ nước và các công trình hạ tầng kỹ thuật môi trường theo quy định tiêu chuẩn quốc tế.

Việc cải cách lại hệ thống thuế tài nguyên và xem xét lại thuế môi trường hướng tới phát triển “nền kinh tế xanh” cũng cần sớm được điều chỉnh. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm thay đổi nhận thức của xã hội để tạo ra sự đồng thuận cao từ lãnh đạo đến người dân và doanh nghiệp, từ đó thay đổi quan điểm và nhận thức về một “nền kinh tế xanh”. Tăng cường sự hợp tác quốc tế trong nỗ lực xây dựng “nền kinh tế xanh” ở Việt Nam bằng việc huy động nguồn hỗ trợ của quốc tế, nhất là nguồn vốn đầu tư 2% GDP toàn cầu cho phát triển “nền kinh tế xanh”…

Theo nhandan.com.vn, ngày 13/04/2014

Ngày Môi trường thế giới 2014: Hãy hành động để ngăn nước biển dâng

bankimontrongrung

Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki Moon trồng cây

Hưởng ứng Năm Quốc tế các tiểu quốc đảo đang phát triển 2014 International Year of Small Island Developing States -SIDS), chủ đề Ngày Môi trường thế giới 05/6 (tạm dịch là): “Hãy hành động để ngăn nước biển dâng” (Raise your voice, not the sea level) hướng tới chủ đề rộng lớn là biến đổi khí hậu và tác động của nó.

​Thông qua đó hướng tới mục tiêu hỗ trợ cho chủ đề Hội nghị quốc tế lần thứ 3 về tiểu đảo diễn ra vào tháng 9 tới và sự cấp bách phải bảo vệ các hải đảo khi phải đối mặt với các rủi ro ngày càng tăng, đặc biệt là vấn đề biến đổi khí hậu.

Quốc đảo là nơi lưu giữ các nền văn hóa và các di sản độc đáo và đang dạng cũng như là nơi có hệ sinh thái, đa dạng sinh học và nhiều cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp. Tuy nhiên, các quốc đảo đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như biến đổi khí hậu, quản lý chất thải, tiêu thụ không bền vững, suy thoái tài nguyên thiên nhiên, thiên tai khắc nghiệt, là nạn nhân của sự gia tăng ô nhiễm và công nhgiệp hóa trên toàn cầu.

Trong đó, biến đổi khí hậu là thách thức hàng đầu, mặc dù các quốc đảo nhỏ chỉ phát thải CO2 hằng năm ít hơn 1% lượng phát thải trên toàn thế giới nhưng họ lại chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu và nước biên dâng. Ủy ban Quốc tế về biến đổi khí hậu (IPCC, năm 2007) đã ước tính rằng sự nóng lên toàn cầu sẽ khiến mực nước biển dâng lên từ 180 – 590 mm vào năm 2100. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây cho thấy những ước tính trên có khả năng tăng lên ít nhất hai lần.

Tính dễ bị tổn thương do sự biến đổi khí hậu, hạn chế về khả năng phục hồi sau thiên tai và sự đe dọa của đa dạng sinh học độc đáo trên các đảo. Trong 400 năm qua, đã có 724 loài động vật bị tuyệt chủng, khoảng một nửa trong số đó là các loài ở hải đảo, và có ít nhất 90% số loài chim đã tuyệt chủng trong cùng thời gian ở các đảo trên.

Cộng đồng ven biển ở mọi quốc gia sẽ bị đe dọa do lũ lụt và triều cường, trong đó các hải đảo nhỏ là những nơi sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nhiều quốc đảo với dân cư và các nền văn hóa sẽ bị nước biển nhấn chìm.

Tại Lễ khai mạc Năm Quốc tế các tiểu quốc đảo đang phát triển 2014, Tổng Thư ký LHQ Ban-Ki-moon kêu gọi : “Trái Đất chính là hòn đảo chung của tất cả chúng ta, vì vậy hãy cùng nhau bảo vệ trái đất”.

Theo nghiên cứu của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), việc chuyển đổi này sẽ tạo cơ hội cho các tiểu quốc đảo quản lý vốn tự nhiên tốt hơn, bảo vệ môi trường, tạo ra các việc làm xanh để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ.

Theo nguồn UNEP

Công nghệ pin nhiên liệu và kinh tế hydrogen

Trong cuộc khủng hoảng dầu mỏ những năm 1970, General Motor đã nêu sáng kiến nên chuyển dần nền kinh tế dựa vào dầu mỏ sang nền kinh tế dựa vào hydrogen (hydrogen economy) nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn dầu mỏ bất ổn ở Trung Đông và tránh được sự đổ vỡ nền kinh tế khi trữ lượng dầu mỏ đến ngày cạn kiệt.

hydrogen

Hydrogen là nguyên tố có nhiều nhất, cấu tạo nên 90% vật chất trong vũ trụ và trái đất; hiệu suất cháy của nó cao hơn dầu mỏ (60% so với 25%). Khi đốt hydrogen chỉ có một sản phẩm phụ duy nhất là nước, không kèm bất cứ chất thải nào có hại cho môi trường như khi đốt xăng dầu. Có nhiều cách sản xuất hydrogen, trong đó có biện pháp điện phân nước, mà nước chiếm 70% diện tích trái đất. Tóm lại hydrogen là nguồn năng lượng tái sinh sạch nhất, hiệu suất cao nhất và có nguồn cung cấp vô tận. Bởi vậy kinh tế hydrogen sẽ là nền kinh tế bền vững lý tưởng nhất của loài người.

Về nguyên tắc, tất cả các phương tiện chuyên chở chạy bằng xăng dầu đều có thể chuyển sang chạy bằng hydrogen. Khi ấy năng lượng hóa học của hydrogen được chuyển thành năng lượng cơ học bằng cách đốt hydrogen trong động cơ đốt trong, hoặc cho hydrogen phản ứng với oxygen trong pin nhiên liệu (FC, fuel cell), qua đó sinh ra điện. FC sẽ cung cấp cho nhân loại nguồn điện sạch và bền vững; sản phẩm phụ của nó chỉ là nước. Dùng hydrogen để chạy xe và phát điện là hai lĩnh vực rất có triển vọng, nhất là xe chạy pin nhiên liệu hydrogen (fuel cell vehicle, FCV). Tuy vậy giá thành FC hiện nay còn quá đắt khiến giá FCV bị đội cao quá mức thị trường có thể chấp nhận. Vì thế việc nghiên cứu hoàn thiện công nghệ FC và xây dựng hệ thống cung cấp hydrogen cho các xe FCV trở thành nhiệm vụ chính trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế hydrogen.

hydrogen2

Tại Mỹ, từ 5/2001 Tổng thống Bush đã đề xuất kế hoạch phát triển năng lượng hydrogen. Tháng 2/2002 ông đưa ra Báo cáo Triển vọng dài hạn nước Mỹ chuyển sang kinh tế hydrogen năm 2030. Năm sau lại đề xuất Sáng kiến nhiên liệu hydrogen (HFI) nhằm thương mại hóa xe dùng FC hydrogen. Năm 2008 Mỹ đã chi 1 tỷ USD cho HFI. Tháng 2/2004, Bộ Năng lượng Mỹ (DOE) đưa ra dự án nghiên cứu triển khai công nghệ năng lượng hydrogen kèm biểu tiến độ thực hiện. Thời gian 2004~2008, Mỹ đã chi 1,7 tỷ USD cho nghiên cứu phát triển công nghệ FC.

Chính phủ Obama mới đầu không chủ trương phát triển kinh tế hydrogen vì cho rằng xe FCV có giá thành quá cao. Năm 2009, Steven Chu (Nobel Vật lý 1997) tân Bộ trưởng DOE cắt giảm ngân sách nghiên cứu FC từ 250 triệu USD xuống còn 70 triệu. Đến năm 2012 Chu đã thay đổi quan điểm, cho rằng do nước Mỹ có nguồn cung cấp khí đốt rồi rào nên xe dùng FC hydrogen có tiềm năng phát triển. Tháng 7/2012 DOE đầu tư 2,4 triệu USD xây dựng các trạm bơm hydrogen; sau đó lại cấp 1 triệu USD cho việc phân tích giá thành sản xuất vận chuyển nhiên liệu hydrogen. Ngày 13/5/2013, DOE khởi động Dự án H2USA với nội dung chính phủ và các công ty hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển nhiên liệu hydrogen. Ngày 12/6/2013, lại cấp 9 triệu USD để phát triển công nghệ hydrogen và FC.

EU, nhiều nước phương Tây, Nhật và Hàn Quốc cũng hăng hái nghiên cứu phát triển công nghệ FC và các loại xe chạy FC hydrogen. Một số loại FCV của Nhật và Hàn Quốc hiện đang được thị trường Mỹ ưa dùng.

Nhưng tiến trình chuyển đổi kinh tế dầu mỏ sang kinh tế hydrogen gặp sự chống đối từ giới công nghiệp dầu mỏ, vì họ không muốn chịu thiệt khi dầu mỏ mất địa vị thống trị nền kinh tế. Trước tiên, các mỏ dầu và nhà máy luyện dầu (giá bình quân 1 tỷ USD mỗi nhà máy) sẽ phải đóng cửa. Công nghệ FC chưa hoàn thiện cũng cản trở sự chuyển đổi nói trên. Ngoài ra từ thập niên 80, công nghệ thăm dò khai thác dầu mỏ có tiến bộ nhảy vọt, phát hiện nhiều mỏ dầu mới, giới kinh doanh lại lao vào đầu tư khai thác dầu mà coi nhẹ việc nghiên cứu sử dụng hydrogen.

Chính phủ Mỹ vẫn chưa chọn hydrogen làm nguồn năng lượng chính, mà muốn dùng khí đốt hóa lỏng thay cho dầu mỏ, vì gần đây Mỹ đã tự túc, thậm chí xuất khẩu khí đốt. TT Obama chủ trương đẩy mạnh sản xuất điện bằng khí đốt, phát triển ô tô chạy điện ăc quy, đặt các trạm nạp điện cho ô tô, đồng thời cắt giảm chi phí nghiên cứu FCV.

Chuyển sang nền kinh tế hydrogen là một công việc dài hạn và tốn kém, trong lúc các chính phủ đều phải dồn sức đạt được mục tiêu tăng trưởng trước mắt. Vì vậy kinh tế hydrogen hiện nay chưa được phát triển như dự kiến, nhưng các nhà khoa học vẫn tin rằng cuối cùng loài người sẽ từ bỏ dầu mỏ mà chuyển sang dùng hydrogen.

Để thúc đẩy tiến trình chuyển đổi nói trên, năm 2003 đã thành lập một tổ chức quốc tế là Chương trình đối tác Kinh tế hydrogen và Pin nhiên liệu (The hydrogen economy and fuel cell partnership program, IPHE), thành viên gồm EU và 17 nước : Australia, Áo, Brazil, Canada, Trung Quốc, Đức, Pháp, Iceland, Ấn Độ, Ý, Nhật, Hàn quốc, Na Uy, Nga, Nam Phi, Anh, Mỹ. Hàng năm Ban Chỉ đạo IPHE đều họp 2 lần để nghe Ban Thư ký IPHE và các nước thành viên báo cáo tình hình đầu tư phát triển công nghệ pin nhiên liệu FC và năng lượng hydrogen, trao đổi thông tin và bàn công tác phối hợp nghiên cứu.

hydrogen3

Hội nghị lần thứ 19 Ban chỉ đạo IPHE đã họp tại London trong hai ngày 23-24/5/2013. Cuộc họp cho thấy các nước đều tăng đầu tư vào lĩnh vực giao thông, như Đức có dự án H2Mobility, Anh có UKH2Mobility. Mỹ vừa chính thức khởi động dự án H2USA nhằm tăng tốc xây dựng cơ sở hạ tầng thiết bị hydrogen, thương mại hóa FCV. EU đang thực hiện dự án CPT (Clean Power for Transport), đầu tư 123 triệu Euro xây dựng 77 trạm bơm hydrogen chạy xe tại 15 nước đã có hệ thống trạm này. Trên lĩnh vực ứng dụng cố định, các trạm thông tin dùng FC có triển vọng rất tốt. Hội nghị cũng bàn vấn đề phát triển nền kinh tế hydrogen trong tình hình cơ cấu nguồn năng lượng thế giới đang có sự điều chỉnh lớn do xuất hiện cuộc cách mạng khí đá phiến (shale gas).

Theo Nguyễn Hải Hoành, tiasang.com.vn

 

Mười ý tưởng công nghệ xanh táo bạo

Biến đổi khí hậu, bế tắc giao thông, khủng hoảng đói nghèo: vấn đề đặt ra trong thế kỷ này có lẽ là làm thế nào để bảo đảm sự sống còn của nhân loại. Vấn đề càng lớn bao nhiêu thì các giải pháp càng phải có tầm nhìn lớn bấy nhiêu. Chúng tôi xin giới thiệu mười nhà nghiên cứu đưa ra những ý tưởng công nghệ nổi bật nhằm thay đổi thế giới.

Elon Musk: Tàu bánh sắt siêu âm

Ông là người đã đơn giản hoá việc thanh toán trên Internet bằng PayPal, đưa ô tô điện vào cuộc sống thông qua Tesla Roadster và tư nhân hoá các chuyến bay lên vũ trụ với Space X. Tới đây nhà phát minh, doanh nhân 43 tuổi này còn muốn tặng thế giới một loại phương tiện giao thông hoàn toàn mới lạ có tốc độ gấp hai lần máy bay nhưng giá lại rẻ hơn.

Ông Musk đang phát triển một loại tàu nhanh có tên Hyperloop, có sức mạnh của máy bay Concorde cộng với khẩu pháo. Ở khẩu pháo này, đầu đạn tăng tốc nhờ tác động của từ trường. Theo Musk, Hyperloop sẽ chỉ cần khoảng nửa tiếng đồng hồ để chạy quãng đường 600 km từ San Francisco tới Los Angeles.

Hơn thế nữa, tàu có thể sử dụng hoàn toàn năng lượng mặt trời do các tế bào quang điện đặt dọc tuyến đường cung cấp. Chi phí xây dựng tuyến đường này hết khoảng sáu tỷ đôla – chỉ bằng một phần mười chi phí đầu tư xây dựng tuyến đường sắt cao tốc ở California.

Heinrich Bülthoff: Đến văn phòng bằng máy bay không người lái

Thiết bị bay không người lái chạy điện Mycopter

Ô tô có thể chạy theo ba hướng: đi thẳng, rẽ hay chạy lùi. Khi bị ùn tắc thì ô tô chết dí một chỗ. Trong khi đó còn có một hướng đi nữa dành cho chúng mà không được tận dụng, đó là thăng thiên. Một nhóm các chuyên gia quốc tế đang nghiên cứu về cái hướng đi lên này, dự án này của EU mang tên Mycopter.

Mục tiêu: tạo đường trên không để ô tô bay được điều khiển bằng máy tính có thể đưa thẳng hành khách tới tận nơi làm việc – từ đó giảm tiêu hao năng lượng không cần thiết. Ý tưởng này không hoàn toàn là không tưởng: trong thực tế đã có những “con lai” đầu tiên giữa máy bay và ô tô, thí dụ Model Transition của Terrafugia, một doanh nghiệp khởi nghiệp ở Mỹ. Doanh nghiệp e-Volo ở Karlsruhe, Đức thậm chí đang thử nghiệm một loại trực thăng chạy điện dễ dàng điều khiển.

Dưới sự điều hành của giáo sư Heinrich Bülthoff, thuộc Viện Max-Planck về điều khiển học sinh học ở Tübingen, các nhà nghiên cứu về Mycopter muốn làm rõ, phải làm gì để tiếp tục phát triển các thiết bị bay loại này thành vật thể bay không người lái để vận chuyển hành khách, cũng như chính quyền phải ứng xử như thế nào trước những đổi thay này: trong tương lai, những người tự bay cần có bằng loại gì, quản lý giao thông bay cá nhân sẽ diễn ra như thế nào, sự tích hợp của loại hình giao thông này ở các thành phố sẽ ra sao. Các nhà nghiên cứu muốn có những lời đáp cho những câu hỏi trên để việc đi lại bằng vật thể bay cũng đơn giản như đi lại bằng ô tô.

Eduard Heindl: Biến núi thành bình ắc quy

150514_congnghexanh2

Theo các nhà khoa học, một tảng đá đè lên một cột nước có thể tích một lượng điện lên đến hai Terawatt/giờ năng lượng – tương đương lượng điện mà cả nước Đức tiêu thụ trong khoảng 30 giờ đồng hồ.

Để chuyển đổi hoàn toàn sang năng lượng tái tạo, nước Đức phải dịch chuyển những quả núi, đúng như nghĩa đen của từ đó. Đây là đề nghị của nhà khoa học ĐH Khoa học ứng dụng Furtwangen. Nhà vật lý này có ý định xây một công trình tích năng lượng khổng lồ bằng đá hoa cương, và đây sẽ là công trình nổi bật vì sự đồ sộ tương tự như Ayers Rock ở Australia.

Ông Heidl dự kiến dùng thiết bị khoan đường hầm và máy cưa đá để tách một khối đá hoa cương hình trụ (hoặc hình ống), có chiều cao trên 500 mét và đường kính một kilômét. Những kẽ hở và bề mặt của khối đá này sẽ được trát thật phẳng để bảo đảm độ khít. Lượng điện dư thừa từ các cột điện gió và từ tế bào quang điện bảo đảm cho hoạt động của cỗ máy bơm khổng lồ này, trụ đá nén khối nước khổng lồ ở bên dưới để từ đó đẩy trụ lên hàng trăm mét. Khi lưới điện cần năng lượng – thí dụ khi lặng gió – nước sẽ chảy bên dưới trụ đá hoa cương và làm cho turbine hoạt động.

Chi phí xây dựng cái gọi là kho lưu trữ năng lượng này có thể lên tới cả tỷ Euro và có thể tích được khoảng 2.000 Gigawatt giờ điện – nhiều gấp 40 lần lượng điện lưu trữ của tất cả các nhà máy bơm tích điện hiện nay của nước Đức và bằng lượng điện mà nước Đức tiêu thụ trong một ngày.

Matt Watson: Làm nguội trái đất

150514_congnghexanh3

Khi con người đã biết nhân bản cừu, đã có thể dời non chuyển núi – vậy thì còn ngại ngần gì mà không tạo ra một hoạt động của núi lửa? Đây chính là điều mà nhà nghiên cứu Matt Watson muốn đạt được với dự án Projekt SPICE của mình nhằm chấm dứt sự nóng lên của trái đất.

Nhà khoa học thuộc Đại học Bristol của Anh muốn làm được cái mà núi lửa Pinatubo (Philippines) đã từng gây ra, vụ núi lửa này bùng nổ vào năm 1991 đã làm cho nhiệt độ trái đất giảm nửa độ C vì tro núi lửa bốc lên tới tầng bình lưu và che ánh nắng mặt trời. Watson cũng muốn thổi lớp tro bụi lên tới tầng bình lưu thông qua một cái ống gắn vào phần cuối một quả cầu hellium khổng lồ lên đến độ cao 20 km. Một tầu thuỷ chạy trên biển là cơ sở phục vụ cho toàn bộ quá trình này.

Thử nghiệm lắp đặt đầu tiên ở quy mô nhỏ dự định tiến hành vào năm 2012 nhưng đã phải ngưng lại. Nay Watson có ý định phát triển ý tưởng của mình trước hết ở trong phòng thí nghiệm.

Yasuyuki Fukumuro: Tạo ra điện trên không gian

150514_congnghexanh4

Trong tương lai nhà máy điện mặt trời trên không gian có thể phóng năng lượng xuống trái đất.

Vị trí tốt nhất để làm nhà máy điện mặt trời ở đâu? Theo Yasuyuki Fukumuro, phụ trách dự án Space Solar Power Systems thuộc Cơ quan Nghiên cứu Vũ trụ Nhật bản Jaxa, thì vị trí thích hợp nhất để đặt nhà máy điện mặt trời là trên quỹ đạo trái đất. Đây là nơi luôn chói chang ánh sáng mặt trời, không bao giờ có mây che phủ – đó là những đặc điểm nổi bật của vị trí này.

Fukumuro dự định sẽ truyền tải điện thông qua tia vi sóng tới một trạm trên mặt đất. Một nghiên cứu của International Academy of Astronautics cho hay, từ 10 đến 20 năm tới có thể xây dựng nhà máy điện đầu tiên trên quỹ đạo.

Tuy nhiên việc bắn các tế bào quang điện lên vũ trụ bằng tên lửa có hiệu quả hay không, đây còn là chuyện rất xa vời. Một điều chắc chắn phải được giải quyết là làm sao để giảm đáng kể trọng lượng của tế bào quang điện, hay sản xuất chúng thông qua máy in ngay trên vũ trụ.

Claudio Lenoardi: Máy bay gá lắp

150514_congnghexanh5

Việc gá lắp các khoang máy bay sẽ làm cho hành khách cũng như hành lý, hàng hoá lên máy may nhanh chóng hơn. Đến một ngày nào đó người ta có thể gá lắp các container chứa khí hydro hay các thùng chứa bình ắc quy vào những chiếc máy bay dùng năng lượng điện.

Claudio Leonardi, một nhà nghiên cứu thuộc Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ Lausanne đang xúc tiến một đề án mang tên Clip-Air , theo đó hành khách đi máy bay trong tương lai khi xuất phát từ một ga xe lửa có thể lên khoang đa chức năng đi thẳng ra sân bay bằng đường sắt, từ đây lên thẳng máy bay mà không cần hoàn tất các thủ tục để lên máy bay.

Có thể lắp tới ba cabin, mỗi cabin dài 30 mét tại sân bay vào một loại máy bay chuyên dụng. Mỗi cabin có thể chứa tới 150 hành khách, tương đương một máy bay Airbus-A320. Cũng có thể gá lắp các khoang chở hàng hoá, hành lý theo nhu cầu vào chiếc máy bay này.

Ý tưởng này còn tiếp tục được Đại học Glasgow phát triển. Hệ thống Horizon của họ gồm một tàu lượn hoạt động bằng điện, luôn ở gần một đường băng chuyên dụng ở sân bay và chỉ tiếp đất khi ca bin tàu hỏa tới và gá lắp vào, sau đó lại cất cánh bay tiếp. Bên cạnh hành khách trong các ca bin này còn có các bình ắc quy mới nạp điện để máy bay có thể tiếp tục bay. Khi hạ cánh, những ca bin này tách khỏi máy bay và chạy tiếp đến các thành phố khác thông qua truyền động từ tính.

Michael Sterner: Tàu thuỷ trở thành máy phát điện

Hiện đã có một số ý tưởng về việc khai thác năng lượng từ biển cả. Tuy nhiên chưa có phương án nào tiến xa như phương án của Michael Sterner, giáo sư về tích năng lượng và hệ thống năng lượng thuộc ĐH Khoa học ứng dụng Regensburg, Đức. Ông dự định dùng những tàu thuỷ dài khoảng 100 mét điều khiển bằng computer hoạt động trên Bắc Đại tây dương để tạo ra khí hydro.

Ngay khi có gió đẩy tàu chạy, dòng nước sẽ làm cho turbine tích hợp trong con tàu tạo ra điện từ đó thông qua điện phân để sản xuất khí hydro. Sterner cho rằng, trong điều kiện thuận lợi về gió, con tàu có thể tạo ra năng lượng ổn định dưới dạng khí hydro và tích trong những thùng lớn. Sau đó, khí hydro sẽ được bơm sang những thùng lớn trên bờ và nguồn năng lượng này có thể sử dụng thí dụ với ô tô chạy bằng khí hydro.

Cánh buồm là những Flettnerrotor, đây là những turbine gió dạng thẳng đứng. Một con tàu có thể tạo ra hai Megawatt điện. Các bộ phận cấu thành hiện đã có – giờ cần có người đứng ra đóng con tàu năng lượng đầu tiên này.

Edmund Kelly: Nhà máy điện mặt trời bồng bềnh

Thông thường các nhà máy điện mặt trời có năng suất cao hơn khi được mặt trời chiếu sáng nhiều hơn. Vì vậy từ lâu các nhà khoa học đã lên kế hoạch xây dựng các nhà máy điện mặt trời trên sa mạc và thậm chí cả trên không gian. Nhà nghiên cứu Edmund Kelly ở California và doanh nghiệp khởi nghiệp Stratosolar của ông đang tính đến một phương án mới: xây dựng các nhà máy điện mặt trời và neo lơ lửng trên tầng bình lưu.

Những quả bong bóng khổng lồ chứa hàng nghìn tấn khí nhiên liệu mang theo những tế bào quang điện mỏng dính lên bầu trời ở độ cao 20 km.

Đây là nơi mặt trời chiếu sáng liên tục suốt cả ngày, không có gió và không khí rất lạnh do đó hiệu suất của điện mặt trời ở đây cao hơn nhiều so với ở trên mặt đất. Dòng điện từ quả bóng quang điện trên không khổng lồ được truyền qua giây cáp xuống trái đất, dây cáp này đồng thời cũng là giây neo bong bóng. Theo tính toán của nhà nghiên cứu Kelly, mặc dù chi phí xây dựng cực kỳ lớn nhưng giá thành điện mặt trời trên tầng bình lưu rẻ hơn gấp ba lần so với giá thành điện mặt trời trên trái đất hiện nay.

Neil Palmer: Tái tạo điện từ những tia chớp

Bầu khí quyển trái đất có điện tích cực lớn. Mỗi ngày trên thế giới có tới ba triệu tia chớp trên bầu trời. Một nhóm nghiên cứu thuộc ĐH Southampton (Anh) do nhà vật lý Neil Palmer đứng đầu cùng với các nhà nghiên cứu của hãng chế tạo điện thoại di động Phần Lan Nokia đã xem xét khả năng tận dụng năng lượng này để vận hành các thiết bị điện trong cuộc sống của chúng ta.

Các nhà khoa học đã tạo được những tia chớp mạnh 200.000 Volt ở trong phòng thí nghiệm, họ dùng một thiết bị thu chuyên dụng để tiếp nhận nguồn năng lượng này và nạp dòng điện vào một Lumia-925-Smartphone, mà không làm tổn hại đến chiếc điện thoại di động. Cũng với cách tương tự, các nhà nghiên cứu khác cũng sử dụng những cột tháp khổng lồ để bắt các tia chớp và từ đó gặt hái điện từ không khí. Vấn đề là ở chỗ: việc này diễn ra như thế nào và liệu có hiệu quả hay không, đây vẫn là những câu hỏi còn để ngỏ.

Louis Michaud: Lấy điện từ những cơn lốc xoáy

Kỹ sư Louis Michaud đang nghiên cứu tại một cơ sở thí nghiệm về nhà máy điện lốc xoáy.

Lốc xoáy là nỗi kinh hoàng với rất nhiều người. Riêng kỹ sư Louis Michaud người Canada lại thấy lốc xoáy cực kỳ hấp dẫn đến mức ông tìm cách tạo ra chúng. Viên kỹ sư này muốn cùng doanh nghiệp khởi nghiệp Avetec của mình xây dựng các nhà máy điện tạo lốc xoáy để làm ra điện. Ông sử dụng nguồn khí thải nóng từ các nhà máy luyện thép hay nhà máy nhiệt điện cho chạy qua những ống khói cao và không khí bốc lên cao theo chiều xoắn ốc.

Không khí bên ngoài lạnh hơn nên phía trên ống khói hình thành một lực hút xoáy, điều này tạo ra một lốc xoáy cao khoảng 40 mét. Nhà nghiên cứu Michaud hy vọng năng lượng hình thành ở đây đủ để vận hành một turbine ở dưới chân tháp và từ đó tạo ra điện.

Bằng cách này có thể dùng khí thải nóng của một nhà máy điện chạy than công suất 500 Megawatt tạo ra lốc xoáy trong tháp thêm một lượng điện lên tới 200 Megawat.

Kỹ sư Michaud đã nhận được một sự hỗ trợ đắc lực của Peter Thiel, nguyên CEO ở PayPal và là nhà đầu tư số một tại Facebook – ông này đóng góp 300.000 đôla để xây dựng một nguyên mẫu.

Theo Xuân Hoài/Tạp chí Tia Sáng, 14/05/2014

Quỹ Ủy thác tín dụng xanh tham gia Hội chợ triển lãm quốc tế ENTECH lần thứ 6

Từ ngày 21 đến ngày 23/5/2014, Hội chợ triển lãm Quốc tế ENTECH Hà Nội 2014 (Năng lượng Hiệu quả – Môi trường) đã diễn ra tại Trung tâm triển lãm quốc tế I.C.E (Hà Nội) với hơn 200 gian hàng của khoảng 150 doanh nghiệp trong và ngoài nước trưng bày các công nghệ sản phẩm tiết kiệm năng lượng và môi trường đến từ Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thụy Điển.…

Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh (GCTF) cũng tham gia Hội chợ nhằm giới thiệu đến các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ, các nhà cung ứng thiết bị và giải pháp kỹ thuật công nghệ, và các đơn vị khác có quan tâm một cơ chế hỗ trợ tài chính dành cho các dự án thay đổi công nghệ theo hướng tiết kiệm năng lượng và giảm tác động môi trường.

Entech1

 Giới thiệu Quỹ GCTF tại triển lãm ENTECH 2014

Các sản phẩm, công nghệ năng lượng-môi trường tại Entech Hanoi 2014 sẽ tập trung vào các lĩnh vực là công nghệ xây dựng; năng lượng tái tạo, năng lượng mới, nguồn năng lượng; giao thông vận tải, xăng dầu và khí đốt; than và năng lượng tập hợp; tư vấn tiết kiệm năng lượng; công nghệ xử lý chất thải công nghiệp; công nghệ xử lý môi trường phục vụ sinh hoạt.

Image1

  Quỹ GCTF được điều phối bởi Trung tâm VNCPC

 Gian hàng của GCTF đã tiếp xúc với nhiều đơn vị bạn cùng tham gia triển lãm cũng khách tham quan. Các bên cùng trao đổi về những khả năng xây dựng dự án liên quan tới:

  • Sử dụng năng lượng mới, tái tạo thay thế cho các dạng năng lượng không tái tạo;
  • Lắp đặt các loại thiết bị sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả thay thế cho các thiết bị hiện có của các doanh nghiệp trong nhiều ngành sản xuất khác nhau: đèn chiếu sáng, bộ phận gia nhiệt, thiết bị phát nhiệt và phát điện di động, …

entech8

 Tư vấn trực tiếp cho các doanh nghiệp tới dự Hội chợ ENTECH về Quỹ GCTF

Admin VNCPC

Giờ Trái Đất 2014: Việt Nam tiết kiệm 431.000 KWh điện

Trong 60 phút tắt đèn và các thiết bị điện không cần thiết của chiến dịch Giờ Trái đất 2014 tối 29-3, Việt Nam tiết kiệm được sản lượng điện 431.000 KWh, tương đương khoảng 650 triệu đồng.

Theo thống kê từ Trung tâm điều độ Hệ thống điện Quốc gia thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), trong 60 phút tắt đèn và các thiết bị điện không cần thiết của chiến dịch Giờ Trái đất 2014, công suất hệ thống giảm được 431 MW, sản lượng điện tiết kiệm được của cả nước là 431.000 KWh, tương đương khoảng 650 triệu đồng.

Trong 60 phút tắt đèn của chiến dịch Giờ Trái đất 2013, cả nước đã tiết kiệm được 401 MW điện, tương ứng 576 triệu đồng. Năm tiết kiệm được nhiều điện năng nhất kể từ khi Việt Nam ưởng ứng Giờ Trái đất năm 2009 tới nay là năm 2012, tiết kiệm được 546.000 kWh, tương đương tiết kiệm 712 triệu đồng.

Hưởng ứng Giờ Trái đất tối 29-3 tại Nhà Hát lớn TP Hà Nội (Ảnh: Nguyễn Quyết/nld.com.vn)

Trong 60 phút tắt đèn của chiến dịch Giờ Trái đất 2014 từ 20 giờ 30 đến 21 giờ 30 tối 29-3, 63 tỉnh thành Việt Nam đã cùng cả thế giới tham gia chương trình Giờ trái đất năm nay với thông điệp “Hãy hành động để Trái đất thêm xanh”.

Đây là lần thứ 8 Chiến dịch này được tổ chức trên thế giới và thứ 6 tại Việt Nam. Chiến dịch được người dân 63 tỉnh, thành, nhất là các bạn trẻ, ủng hộ rộng rãi.

Tại Hà Nội, đúng 20 giờ 30 phút, nghi thức tắt đèn diễn ra, phố Tràng Tiền cùng tất cả đèn điện xung quanh hồ Hoàn Kiếm vụt tắt. Các địa danh nổi tiếng của Hà Nội như đền Ngọc Sơn, tháp Rùa, cầu Thê Húc, vườn hoa Lý Thái Tổ, Nhà hát Lớn, hồ Trúc Bạch… đồng loạt tắt đèn. Nhiều khu phố Hà Nội gần như chìm trong bóng tối.

Ở Quảng Nam, hàng ngàn người dân và du khách tập trung tại Quảng trường Sông Hòa và Vườn tượng An Hội của TP Hội An để thả hoa đăng và tham gia các hoạt động như xếp hình, sinh hoạt văn nghệ với chủ đề: Hãy hành động để Trái đất thêm xanh. Tất cả hàng quán, dịch vụ kinh doanh, du lịch tại TP Hội An đều tắt điện và thắp sáng bằng nến, đèn dầu.

Tại TP Đà Nẵng, tất cả biển quảng cáo lớn dọc hai bên bờ sông Hàn cùng các tuyến phố chính đều tắt điện. Nhà hàng, khách sạn… cũng tắt đèn panô và đèn chiếu sáng.

Nhiều công trình quan trọng tại TP HCM cũng đồng loạt tắt đèn.

Giờ Trái đất là chiến dịch toàn cầu do Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) phát động và khởi xướng nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về sử dụng hiệu quả, tiết kiệm năng lượng, góp phần bảo vệ môi trường trước biến đổi khí hậu toàn cầu. Sáng kiến này kêu gọi các cá nhân và doanh nghiệp trên toàn thế giới tắt điện một giờ đồng hồ vào 20 giờ 30 – 21 giờ 30 ngày thứ 7 cuối cùng của tháng 3 hàng năm.

Chiến dịch được thực hiện đầu tiên vào năm 2007 tại thành phố Sydney (Úc) với sự tham gia hưởng ứng của 2,2 triệu người và tại Việt Nam từ năm 2009.

Theo P.Nhung – N.Quyết/nld.com.vn