Đổi mới sáng tạo: Yếu tố sống còn của doanh nghiệp

Các công ty hàng đầu thế giới như Apple, Google, Samsung… đều nằm trong top các công ty “chịu” đổi mới nhất và chi tiêu “mạnh tay” nhất cho R&D và có hiệu quả kinh doanh tốt nhất. Trong môi trường cạnh tranh tự do toàn cầu, các hoạt động này càng trở nên là yếu tố sống còn của các doanh nghiệp (DN). Các DN Việt Nam cũng không ngoại lệ, hoạt động đổi mới sáng tạo (ĐMST) và KH&CN đã đóng góp hiệu quả vào sản xuất kinh doanh và nâng cao năng lực canh tranh của DN. Câu chuyện của hai DN dưới đây là một minh chứng.

Công ty TNHH Cơ khí công nông nghiệp Bùi Văn Ngọ: đổi mới công nghệ để phát triển

Đổi mới sáng tạo

Máy xát gạo, một trong những sản phẩm của Cty Bùi Văn Ngọ. Ảnh: LV

Từ một xưởng cơ khí nhỏ của gia đình, ông Bùi Văn Ngọ và các thành viên đã phát triển thành Công ty TNHH Cơ khí công nông nghiệp Bùi Văn Ngọ (Cty Bùi Văn Ngọ) với những sản phẩm chủ lực phục vụ nông nghiệp. Các sản phẩm của công ty không chỉ phổ biến trong nước mà còn được xuất khẩu. Đặc biệt, những sản phẩm này ra đời đều do sự sáng tạo của người Việt.

Quá trình 60 năm phát triển của Cty Bùi Văn Ngọ là quá trình tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu, sáng tạo và không ngại đổi mới. Ngay từ những năm mới thành lập xưởng cơ khí, ông Bùi Văn Ngọ đã rất chú trọng đến những sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Năm 1963, sáng kiến ra béc phun nhiên liệu dầu cặn sử dụng trong công nghệ nấu gang đã được sử dụng rộng rãi trong các lò nấu kim loại và các lò nung gạch. Sau đó xưởng Bùi Văn Ngọ chuyển sang sản xuất các mặt hàng chế biến nông sản, thiết bị công nghiệp nhẹ, máy nghiền bột giấy,… Từ năm 1986, khi nền kinh tế đổi mới theo cơ chế thị trường, xưởng Bùi Văn Ngọ quyết định hướng trọng tâm sang chuyên sản xuất các thiết bị xay xát gạo. Vừa sản xuất, vừa mở rộng quy mô, các sản phẩm của công ty được biết đến nhiều hơn không chỉ ở thị trường trong nước mà còn ở cả nước ngoài như Thái Lan, Indonesia, Malaysia… Sau những chuyến đi nghiên cứu ở thị trường các nước châu Á, công ty có nhận thức mới về đặc tính kỹ thuật của thiết bị, bố trí hệ thống thiết bị, cơ sở hạ tầng phục vụ xay xát. Đây là động lực thúc đẩy tư duy để thiết kế những thiết bị mới cho phù hợp với mặt bằng công nghệ về xay xát của thế giới.

Năm 1998, Cty Bùi Văn Ngọ cho ra đời loại máy xát trắng gạo mới và được Cục Sở hữu Trí tuệ Việt Nam cấp bằng độc quyền sáng chế về buồng xát dùng cho máy xát trắng gạo. Từ điểm son này, công ty ứng dụng tạo ra các dòng sản phẩm mới được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng, đóng góp lớn vào doanh thu của công ty.

Bên cạnh đó, Cty Bùi Văn Ngọ cũng rất “chịu khó” đầu tư đổi mới công nghệ. Ông Bùi Phong Lưu, Giám đốc Cty Bùi Văn Ngọ cho biết, thời gian qua, những thiết bị gia công kim loại luôn được đầu tư mới, hiện đại hơn như máy đột lỗ CNC, máy cắt kim loại dùng tia plasma, tia laser. Vì thế, tỷ lệ sử dụng nguyên liệu sắt thép tăng từ 80% lên 95 – 97%; tỷ lệ các chi tiết máy không đạt chuẩn từ 5% xuống còn 1%; năng suất lao động tăng nhanh, chất lượng chi tiết máy và thiết bị đạt chuẩn quốc tế. Nghiên cứu sâu về công nghệ xay xát lúa gạo, công ty đã sản xuất ra các dòng sản phẩm máy xay xát thích hợp với vùng lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long. Không chỉ góp phần quan trọng trong việc thay thế thiết bị xay xát ngoại nhập, sản phẩm của công ty còn xuất khẩu đến 26 quốc gia trên thế giới. Hiện nay, công ty đang sản xuất các thiết bị sấy tồn trữ và xay xát lúa gạo đồng bộ theo công nghệ tiên tiến. Các thiết bị này giúp giảm thiệt hại sau thu hoạch. Công ty cũng đã sản xuất được hệ thống thiết bị đồng bộ từ sấy – xay xát – tách màu – đóng gói cho ngành lúa gạo ngang bằng công nghệ xay xát thế giới. Ông Bùi Hữu Nghĩa, Phó Giám đốc phụ trách kỹ thuật cho biết thêm, tất cả các sản phẩm của công ty đều do kỹ sư người Việt của công ty thiết kế, chế tạo. Có được thành công hôm nay là nhờ công ty luôn chú trọng các hoạt động đổi mới sáng tạo và đầu tư cho KH&CN. Phong trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ được công ty phát động rộng rãi từ những người công nhân lao động.

Công ty TNHH Môi trường Nano: thành công từ ĐMST

Máy nano

ThS Nguyễn Văn Diện cùng máy Ozone công nghiệp nano

Xuất phát điểm là một công ty tư nhân có quy mô nhỏ, khó khăn thách thức nhiều hơn thuận lợi, Công ty TNHH Môi trường Nano vẫn mạnh dạn đặt cho mình mục tiêu tạo thương hiệu, mở rộng thị trường, tăng doanh thu, tạo nhiều việc làm, góp phần giải quyết xử lý môi trường tại Việt Nam hiện nay. Để đạt mục tiêu này, quyết tâm thôi chưa đủ, công ty đã chọn con đường ĐMST.

Hơn 5 năm trầy trật nghiên cứu, ThS. Nguyễn Văn Diện (Giám đốc Công ty TNHH Môi trường Nano) và các cộng sự đã thành công trong việc áp dụng công nghệ nano để chế tạo máy ozone công nghiệp phục vụ xử lý môi trường. Trong quá trình tìm kiếm các giải pháp hoàn thiện sản phẩm, công ty đã tiếp cận được với Chương trình đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam – Phần Lan (IPP) và được IPP hỗ trợ “cải tạo và nâng cấp máy ozone công nghiệp”. Kết quả, Công ty Nano cùng với các chuyên gia của Đại học Quốc gia TP.HCM đã hoàn thành nghiên cứu cải tiến và nâng cấp toàn diện máy ozone công nghiệp. Sản phẩm máy ozone công nghiệp được cải tiến “made in Vietnam” có những ưu điểm như: mẫu mã nhỏ gọn, điều khiển tự động, tiết kiệm điện, hoạt động ổn định và quan trọng hơn, máy đã xử lý được mùi, màu và diệt khuẩn trong nước thải, nước sinh hoạt, nước tinh khiết, xử lý mùi nơi công cộng và các nhà máy.

Từ thành công của máy ozone công nghiệp, Công ty Nano tiếp tục ứng dụng thành công công nghệ ozone vào sản xuất modul xử lý nước thải đô thị. Modul xử lý nước thải đô thị có ưu điểm là nhỏ gọn, không chiếm nhiều diện tích, không phải đào bới xây dựng bể chứa, dễ dàng di chuyển khi cần thiết, không gây tiếng ồn và phát mùi khi hoạt động. Sản phẩm này có thể ứng dụng trong xử lý nước thải bệnh viện.

ThS. Diện cho biết, hiện tại, sản phẩm của công ty đã được đưa vào ứng dụng tại hơn 20 công trình xử lý nước thải công nghiệp và hơn 30 phòng khám, bệnh viện ở các tỉnh, thành phía Nam. Các sản phẩm đạt chất lượng tương đương máy nhập ngoại từ châu Âu nhưng giá thành chỉ bằng 1/3. Vì vậy, các sản phẩm của công ty hiện đang được nhiều khách hàng quan tâm và đặt hàng, nhất là modul xử lý nước thải đô thị. Có được thành công này là nhờ Công ty Nano đã chọn đúng hướng đi và mạnh dạn, kiên trì với con đường ĐMST.

ĐMST thực sự đã tạo nên “cú hích” đáng kể đối với kế hoạch phát triển của công ty. Sau khi ĐMST, công ty đã đạt doanh thu tăng gấp đôi, cụ thể từ 2010 – 2012 chỉ đạt bình quân 60 tỷ/năm, nhưng năm 2013 sau khi ĐMST đã đạt khoảng 120 tỷ. Đặc biệt, chất lượng dịch vụ bảo hành, sửa chữa rất chu đáo, kịp thời vì các kỹ sư của công ty đã làm chủ hoàn toàn được công nghệ. Thời gian tới công ty tiếp tục hợp tác với các chuyên gia trong và ngoài nước để nghiên cứu đưa ra sản phẩm mới; tăng cường ứng dụng sản phẩm sẵn có vào thị trường trong nước và hợp tác với các DN nước ngoài để đưa sản phẩm “made in Vietnam” xuất khẩu ra nước ngoài, đặc biệt là các nước trong khu vực châu Á.

Trong bối cảnh hiện nay, ĐMST là việc cần phải làm đối với tất cả các DN, đặc biệt là các DN vừa và nhỏ. DN cần mạnh dạn mở rộng hợp tác với các nhà nghiên cứu của các trường đại học và các tổ chức để phát triển sản phẩm; đẩy mạnh chuyển giao công nghệ; đào tạo đội ngũ nhân viên; hoàn thiện hồ sơ pháp lý (đăng ký nhãn hiệu, kiểu dáng, kiểm định chất lượng…) và quảng bá sản phẩm ra thị trường. Bên cạnh cải tiến hoàn thiện sản phẩm, ĐMST cần toàn diện từ đổi mới tư duy đến đổi mới phương pháp quản lý, sản xuất, kinh doanh, quản lý tài chính, quản lý thị trường, quản lý khách hàng. ĐMST trong DN đòi hỏi nhiều điều kiện, trong đó điều kiện về tài chính và năng lực của đội ngũ chuyên gia tư vấn là cực kỳ quan trọng. Ngoài ra, cần có sự quan tâm và tạo điều kiện đồng bộ từ các cấp, ngành và đặc biệt là sự nỗ lực học hỏi, rút kinh nghiệm của bản thân mỗi DN.

Theo Stinfo số 6/2014

Các động lực để tăng trưởng kinh tế năm 2015

Trong khi kinh tế nhiều nước trên thế giới tăng trưởng còn rất thấp, thậm chí có nước còn tiếp tục suy thoái thì năm 2014, GDP của Việt Nam đạt 5,9%. Tuy nhiên, theo cộng đồng các doanh nghiệp, ý nghĩa không chỉ là từ những gói hỗ trợ, kích cầu mà quan trọng hơn chính là sự điều hành ổn định kinh tế vĩ mô của của Chính phủ – đây chính là khởi nguồn cho các ngành vượt qua khó khăn, phục hồi và phát triển cho năm 2014, đặc biệt là xung lực cho năm 2015.

cac_dong_luc_tang_truong_kinh_te_2015_1

Ổn định kinh tế vĩ mô

Tại Diễn đàn Đối tác phát triển Việt Nam (VDPF) 2014 diễn ra tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, năm 2014 Việt Nam đã đạt được những thành quả khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực cả về phát triển toàn diện kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo đảm ổn định chính trị, quốc phòng an ninh, tăng cường đối ngoại, cải thiện môi trường kinh doanh.

Với sự tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến người dân và doanh nghiệp (DN) như thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, tín dụng, đất đai, xây dựng, thành lập và giải thể DN, thủ tục đầu tư, tiếp cận điện năng…, nhờ đó môi trường kinh doanh từng bước được cải thiện, huy động và sử dụng ngày càng tốt hơn các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.

Nhận định của các tổ chức nước ngoài, các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đều cho rằng: kinh tế vĩ mô của Việt Nam ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức 5%. Chỉ số CPI cả năm chỉ dao động quanh ngưỡng 3%. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, thấp nhất trong 10 năm qua. Đặc biệt, tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế được tích cực triển khai thực hiện tăng cường quản lý, tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách. Bên cạnh việc tăng cường quản lý và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp tái cơ cấu DN nhà nước, tập trung vào cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành, nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh, Chính phủ còn đẩy mạnh tái cơ cấu các tổ chức tín dụng. Đến nay, cơ bản hoàn thành tái cơ cấu các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém, giảm 7 tổ chức tín dụng. Năng lực tài chính của ngân hàng thương mại tăng lên, an toàn hệ thống được bảo đảm. Tăng trưởng tín dụng dự kiến cả năm tăng 12 – 14% theo kế hoạch Ngân hàng Nhà nước đưa ra. Theo ông Phạm Xuân Hòe, Vụ Chính sách Tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước thì tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định. Việc huy động vốn trong năm 2014 tương đối thuận lợi, kim ngạch XK tăng nên nguồn dự trữ ngoại tệ hiện nay khá dồi dào, đạt mức cao nhất từ trước đến nay, niềm tin vào đồng tiền Việt Nam tăng lên… Tất cả các yếu tố này để thấy rằng kinh tế Việt Nam phục hồi và tăng trưởng, GDP đạt 5,9% là hoàn toàn có cơ sở.

Các động lực tăng trưởng kinh tế

Có thể nói, thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) năm nay đạt khoảng 12,5 tỷ USD, tăng 8 – 10% so với 2013. Đáng lưu ý, trong 4 động lực tăng trưởng hiện nay, khối FDI đang giữ vai trò phát triển tốt nhất. Với xu hướng những DN hàng đầu thế giới đang chuyển dịch từ Trung Quốc vào các nước lân cận, trong đó có Việt Nam thì những năm tiếp theo, dự báo động lực tăng trưởng này vẫn duy trì tốt.

Tiếp theo là sản xuất công nghiệp (SXCN), theo Bộ Công Thương, SXCN năm 2014, đặc biệt là những tháng cuối năm có sự bứt phá rất lớn. Với 20.549 tỷ đồng trong năm nay, cho thấy SXCN bớt khó khăn hơn và là tín hiệu khả quan để thúc đẩy công nghiệp có thể tăng trưởng, đóng góp tốt hơn cho toàn bộ nền kinh tế.

Về xuất khẩu (XK), có thể nói đây là năm rất khó dự báo khi những tháng giữa năm chịu sự tác động từ vụ căng thẳng biển Đông, nhiều mặt hàng XK chủ lực của chúng ta sang thị trường Trung Quốc bị chững lại. Tuy nhiên, năm 2014, XK lại đột phá ấn tượng với kim ngạch đạt khoảng 150 tỷ USD, tăng 13%.  Cán cân thương mại, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế tổng thể tiếp tục thặng dư do nhập khẩu khoảng 146,5 tỷ USD. Nhiều mặt hàng XK có tốc độ tăng cao, cụ thể như: hạt tiêu tăng 41,5%, cà phê tăng 31%, giầy dép tăng 24,5%, hạt điều tăng 23,7%, thủy sản tăng 23,7%, máy móc, thiết bị, phụ tùng tăng 22,1%, dệt may tăng 19%… Điều cần khẳng định ở đây là từ con số kim ngạch XK tăng trưởng cho thấy, sự nỗ lực của các Bộ ngành, nhất là các DN Việt Nam đã có sự chủ động tích cực trong việc mở rộng thị trường XK, tránh lệ thuộc vào một số thị trường tập trung.

Thành công tiếp nữa là công tác hội nhập, sau 6 năm trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới – WTO, Việt Nam đã và đang tham gia đàm phán ký kết các Hiệp định thương mại tự do với các đối tác thương mại quan trọng như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Hàn Quốc, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và khối mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Hải quan Nga – Belarut – Cadacxtan… Năm 2014, không chỉ mở ra nhiều hứa hẹn trong đàm phán các Hiệp định thương mại tự do với các đối tác quan trọng mà còn là năm bản lề Việt Nam thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2015 – 2020, đồng thời cũng là năm bản lề của hội nhập khu vực ASEAN nhằm hiện thực hóa Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015.

Cùng với những chỉ tiêu chuyển biến tích cực nêu trên thì thị trường bất động sản trong năm 2014 cũng phục hồi tích cực. Có những địa phương tăng tới 200% các vụ giao dịch so với năm 2013, tính thanh khoản cao. Du lịch cũng đã tăng 10,4%, khách quốc tế đến Việt Nam đạt khoảng 8 triệu lượt… Tất cả những kết quả này chính là bệ phóng để năm 2015, kinh tế Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng.

Theo một số chuyên gia kinh tế, trên thực tế năm 2014, Việt Nam vẫn còn những dư địa tăng trưởng kinh tế nếu tập trung nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xã hội, giải quyết một số động lực tăng trưởng tốt hơn như: tận dụng điều hành chính sách tiền tệ; giải cứu doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa; kích hoạt nhanh hơn thị trường bất động sản; làm cho tác dụng lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với doanh nghiệp trong nước nhanh và có hiệu quả hơn; phát triển công nghiệp hỗ trợ tốt hơn…

 Theo Kinh tế Việt Nam